Không thể phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám
Phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm xuyên tạc lịch sử, hướng lái con thuyền
cách mạng nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, là thủ đoạn không mới,
nhưng vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch. Do đó, luận giải và kiên quyết
đấu tranh làm thất bại mưu đồ phản động ấy là vấn đề cấp thiết và thời sự hiện
nay.
Cách
mạng Tháng Tám giành thắng lợi cách đây 75 năm là dấu mốc lịch sử vĩ đại của
dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Vậy mà, những phần tử cơ hội, xét lại trong và
ngoài nước, đặc biệt cái gọi là đảng Việt Tân lại cố tình phủ nhận thành quả vĩ
đại ấy của dân tộc ta. Chúng cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm
lịch sử”, “là đi ngược lại sự bảo hộ của mẫu quốc”, “là nguyên nhân dẫn đến hai
cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”... Đây là những luận điệu xuyên tạc trắng
trợn của những kẻ thiếu lương tri... quên đi “vết nhơ” của lịch sử dân tộc
ta đã phải chịu cảnh nô lệ, lầm than hơn 80 năm.
Năm
1858, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta,
áp bức đồng bào ta, khiến dân tộc ta mất quyền độc lập, nhân dân ta phải chịu
cảnh nước mất, nhà tan, “một cổ hai tròng”. Thực dân Pháp không cho dân ta
bất cứ quyền tự do dân chủ nào; bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, thẳng
tay chém giết những người yêu nước, dìm những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
trong bể máu... Từ năm 1940, trước sự xâm lăng của phát xít Nhật vào Đông Dương
và Việt Nam, đã bao lần Việt Minh kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật.
Vậy mà, chẳng những thực dân Pháp không đáp ứng, lại thẳng tay đàn áp Việt Minh
và quỳ gối đầu hàng, bán nước ta cho phát xít Nhật, làm cho nhân dân ta phải
chịu hai tầng xiềng xích...
Luận
điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh
đẫm máu ở Việt Nam” thì quả là sự vu khống và xuyên tạc lịch sử. Bởi lẽ, sau
khi Nhật hàng đồng minh, Vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân ta giành được chính
quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, thì ngày
23-9-1945, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế
đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình,
tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”. Nhưng “chúng ta muốn hòa bình, chúng
ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Với tinh thần “Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”(1), quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi to lớn trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Với
bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho
đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp
tục chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc và con đường phát triển đi lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH) do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta xác định từ năm 1930. Và con
đường cách mạng chân chính ấy đã đưa nước ta đến thắng lợi vẻ vang vào ngày
30-4-1975, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Như vậy, chính sự hiếu
chiến xâm lược của bọn thực dân, đế quốc là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc kháng
chiến thần thánh của nhân dân ta, chứ không phải Cách mạng Tháng Tám năm 1945
là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” như bọn phản
động xuyên tạc.
Về
vai trò lãnh đạo và nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng
“đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng
Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên
Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”... Thực chất, luận điệu ấy là chúng
muốn phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vận
mệnh dân tộc Việt Nam, phủ nhận khối đại đoàn kết và tinh thần dân tộc, khát
khao giành độc lập dân tộc của nhân dân ta sau hơn 80 năm dưới sự cai trị tàn
bạo của chế độ thực dân Pháp. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi do
Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con
đường giải phóng dân tộc một cách khoa học, đúng đắn, khắc phục triệt để hạn
chế, sai lầm của những con đường cứu nước mà các nhà yêu nước trước đó đã tiến
hành và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”(2). Các cao trào cách mạng 1930-1931,
1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập”, là tiền đề cho Cách
mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đúng thời cơ, vào thời
điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi!
Về
thành quả của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “không có gì thay đổi chế độ
xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng
trị”... Đây là sự xuyên tạc trắng trợn và phi lịch sử. Ngay về thuật học, chúng
đã đánh tráo khái niệm. Ở nước ta, chế độ “vua trị”, hay nói cách khác là chế
độ “quân chủ” bao giờ cũng đối lập hoàn toàn với chế độ “dân chủ”. Trong
khi đó, cuộc Cách mạng Tháng Tám không những lật đổ sự thống trị của thực dân,
phát xít, mà còn lật đổ hoàn toàn chế độ phong kiến “vua trị”.
Ngay
từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ tôn chỉ, mục đích rõ ràng
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”(3). Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám “là giành lại hòa bình, thống nhất,
độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”(4). Nghĩa là, đánh đổ đế
quốc Pháp, Nhật và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc hoàn toàn, độc
lập dân tộc thực sự để đi đến xây dựng một xã hội hoàn toàn ấm no, tự do, hạnh
phúc-chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày
2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa
nhân dân ta từ kiếp nô lệ, bị bóc lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã
hội. Đồng thời, đưa cách mạng Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc
và CNXH. Thành quả ấy đã giải quyết được vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam-vấn đề chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là điều
kiện tiên quyết để nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
(XHCN)...
Giá
trị lịch sử và thời đại vô cùng to lớn của Cách mạng Tháng Tám đó là giá
trị hòa bình chân chính. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ
là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn là ngọn cờ đầu của các dân tộc, thuộc
địa bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Để
kiên quyết đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn thâm độc ấy của các thế lực
thù địch, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục khẳng định giá trị lịch sử và
thời đại to lớn của Cách mạng Tháng Tám; phải nâng cao bản lĩnh chính trị vững
vàng, tư tưởng luôn kiên định với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã lựa chọn. Hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình
thế giới, khu vực, mỗi quốc gia-dân tộc đều có những chiến lược, sách lược nhất
định nhằm bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia-dân tộc. Đảng ta chủ trương phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân làm động lực chủ yếu để phát triển đất nước; độc
lập dân tộc và CNXH là mục tiêu tối thượng, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN;
phấn đấu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân...; nâng cao vị thế
và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(5) là những mục
tiêu, giải pháp căn bản, góp bảo vệ thành quả vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 của dân tộc ta.
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà
Nội, 2011, tập 4, tr.534.
(2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội,
2011, tập 12, tr.30.
(3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội,
2011, tập 3, tr.1.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà
Nội, 2011, tập 9, tr.35.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.76.
Nhận xét
Đăng nhận xét