Xây dựng văn hóa trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
Đổi mới hệ thống chính trị cần
đến tác nhân văn hóa, nhờ có sự tham dự của văn hóa vào tổ chức và
hoạt động của nó mà hệ thống chính trị mới thực sự dân chủ, khoa
học, nhân văn. Đó là một hệ thống chính trị của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, một hệ thống chính trị xác lập vai trò chủ thể là
nhân dân, đồng thời bảo đảm những điều kiện chính trị - pháp lý và
môi trường dân chủ - đoàn kết - đồng thuận để nhân dân thực sự là chủ
và làm chủ, phát huy được vai trò người chủ của xã hội.
Tác
nhân văn hóa trong đổi mới và đổi mới hệ thống chính trị
Đổi mới ở nước ta
đã đi qua một chặng đường hơn 30 năm mang tầm vóc của một cuộc cách
mạng, một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt
để mọi lĩnh vực của đời sống. Từ Đại hội XII, Đảng ta xác định phải
bảo đảm tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Đổi mới kinh tế nổi bật ở xây dựng và phát triển mạnh mẽ nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó phải là nền kinh tế
thị trường hiện đại, vận động theo quy luật của thị trường, nâng cao
năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế và hội nhập quốc tế. Động
lực và phương thức căn bản để xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường hiện đại, văn minh là khoa học - công nghệ, là nguồn nhân
lực chất lượng cao, đó là vốn người, thành phần quan trọng bậc nhất
của vốn xã hội. Đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các
mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, các hoạt động sản
xuất - kinh doanh phải tuân thủ luật pháp của Nhà nước, làm giàu hợp
pháp, chính đáng được khuyến khích và bảo vệ.
Nguyên lý của nhà
nước pháp quyền hết sức rõ ràng, minh định: mọi công dân được phép
làm tất cả những gì mà luật pháp không cấm, nhưng những người đang
giữ chức quyền trong các cơ quan công quyền thì không được làm những
gì mà luật pháp không cho phép.
Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải do Đảng lãnh
đạo và được quản lý bởi Nhà nước pháp quyền theo tinh thần thượng
tôn pháp luật. Đó là định hướng chính trị đối với sự phát triển
kinh tế thị trường. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính trị nghĩ rộng cũng
là văn hóa và văn hóa nghĩ sâu cũng là chính trị.
Văn hóa không ở bên
ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Do đó, bảo đảm tốt định
hướng chính trị đối với sự phát triển kinh tế thị trường có ý
nghĩa là đem văn hóa chính trị thâm nhập vào kinh tế vì mục tiêu
phát triển xã hội, phát triển con người với thước đo tăng trưởng kinh
tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, tốc độ tăng trưởng phải
gắn liền với chất lượng tăng trưởng. Chất lượng ấy không chỉ là kinh
tế mà còn là văn hóa, văn hóa trong kinh tế và kinh tế trong văn hóa.
Phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không những là mục tiêu và
kết quả của đổi mới kinh tế mà còn xác lập nền tảng kinh tế, cơ
sở vật chất - kinh tế cho đổi mới chính trị và hệ thống chính trị
ở nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị không những bảo đảm cho tổ
chức và hoạt động chính trị tương thích, phù hợp, đồng bộ với đổi
mới kinh tế mà còn làm cho chính trị đóng vai trò động lực thúc
đẩy đổi mới kinh tế.
Một hệ thống chính
trị như vậy, xét cả về mặt tổ chức và hoạt động, sẽ là một hệ
thống chính trị thể hiện được các đặc trưng: khoa học (tính hợp lý)
- dân chủ (bản chất của quyền lực nhân dân) - đạo đức (tôn trọng nhân
dân và nêu cao trách nhiệm với nhân dân) và văn hóa (trong quan hệ ứng
xử với nhân dân, trong tiếp dân trên tinh thần đối thoại, biết lắng
nghe tiếng nói của người dân từ cơ sở). Để làm cho hệ thống chính
trị thể hiện được các đặc trưng đó, nhờ đó mà phát huy được tác
dụng, có sức lôi cuốn sự chú ý, sự tham gia của nhân dân, có sức hấp
dẫn và lan tỏa đối với quần chúng đoàn viên, hội viên các tổ chức,
đoàn thể trong hệ thống chính trị thì phải tìm được cách thức đưa
văn hóa vào hệ thống chính trị, làm cho hệ thống chính trị thấm
nhuần các chuẩn mực văn hóa, nói cách khác phải xây dựng văn hóa
trong hệ thống chính trị, tiêu biểu và tập trung nhất là văn hóa
chính trị. Đây là nội dung chính yếu, nổi bật nhất về văn hóa cần
phải xây dựng trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị từ văn hóa
của Đảng Cộng sản cầm quyền, văn hóa trong Đảng, ở từng tổ chức
đảng, từng cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy các cấp cho đến văn
hóa của mỗi cán bộ, đảng viên.
Văn hóa chính trị cần được xây dựng trong Nhà nước, trong hệ thống chính quyền các cấp, rõ nhất là văn hóa pháp luật, là đạo đức công chức và kỷ luật công vụ. Cán bộ lãnh đạo, quản lý và công chức phải vừa là tấm gương đạo đức, vừa là hiện thân của nền nếp, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công quyền.
Văn hóa chính trị
cũng phải thể hiện trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
tư cách là liên minh chính trị - xã hội rộng rãi nhất, linh hồn của
đại đoàn kết dân tộc, hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ,
là một trong những kênh xã hội rộng rãi, quan trọng nhất để nhân dân
thực hiện vai trò của mình trong tham chính, trong xây dựng chính thể
(xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền), trong kiểm soát quyền lực,
trong giám sát và phản biện xã hội. Các tổ chức, đoàn thể của nhân
dân, do nhân dân lập ra cũng vậy, cũng thể hiện văn hóa chính trị của
mình trong các hoạt động, các lĩnh vực công tác đặc thù.
Thước đo hiệu quả,
tác dụng của hệ thống chính trị là những thước đo văn hóa và văn
hóa chính trị. Đó là:
- Thực hành dân chủ
rộng rãi, phổ biến và thực chất.
- Củng cố đoàn kết,
tạo dựng sự đồng thuận.
- Giảm thiểu và đẩy
lùi quan liêu, tham nhũng.
- Xác lập ổn định
chính trị - xã hội tích cực, bền vững để thúc đẩy đổi mới.
Mức độ hài lòng của
người dân, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ
được tăng tiến là kết quả tổng hợp từ những tác động văn hóa đó.
Để đạt được những thước đo đó, phải rất công phu, bền bỉ, sáng tạo
trong đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng văn hóa và văn hóa chính
trị trong từng tổ chức và trong cả hệ thống. Sự gương mẫu của cá
nhân và tổ chức lãnh đạo (Đảng), quản lý (Nhà nước) và tự quản lý
(ở các cộng đồng cơ sở, để người dân thực hiện quy chế và pháp lệnh
dân chủ ở cơ sở) có tác dụng tập hợp, lôi cuốn, thúc đẩy đối với
toàn dân và xã hội.
Hơn
bao giờ hết, ở thời điểm hiện nay, xây dựng văn hóa trong đổi mới hệ
thống chính trị là thực hiện tốt nhất chỉ dẫn chính trị của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “chính trị cốt ở đoàn kết
và thanh khiết, thanh khiết từ việc nhỏ đến việc lớn”.
Cũng như vậy, Đảng là đạo đức, là văn minh, là hiện thân của văn
hóa. Từ đó có thể thấy, đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta,
trong đó có đổi mới và chỉnh đốn Đảng - mà đây là nội dung cốt
yếu, quan trọng và quyết định nhất đối với thành công của đổi mới
hệ thống chính trị và toàn bộ sự nghiệp đổi mới nói chung, đồng
thời là quá trình xây dựng văn hóa, bảo đảm cho văn hóa tham dự vào
đời sống chính trị như một tác nhân sâu xa, mạnh mẽ và bền bỉ nhất
để chính trị trở thành văn hóa chính trị. Theo đó, văn hóa chẳng
những là mục tiêu mà còn là động lực của phát triển.
Nói tới chính trị
là nói tới quyền lực, nói tới hoạt động chính trị là nói tới sự
tác động và chi phối lẫn nhau giữa tổ chức thiết chế bộ máy, tới
thể chế, chính sách và con người trong các mối quan hệ kinh tế -
chính trị và xã hội, sao cho giải quyết hợp lý và có hiệu quả
nhất vấn đề quyền và lợi ích giữa các chủ thể vì mục tiêu và lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì xây dựng thành công một
xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng văn hóa trong
quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta về thực chất là
làm cho hệ thống chính trị phát triển và trưởng thành từ nhân tố
nội sinh là văn hóa, là văn hóa chính trị, với tác động của khoa
học hóa, dân chủ hóa, nhân văn hóa chính trị.
Đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay nhìn từ yêu cầu của văn
hóa và phát triển
Khái niệm hệ thống
chính trị được sử dụng lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1989 tại Hội
nghị Trung ương 6 khóa VI, khi công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo chỉ vừa mới bắt đầu. Vào lúc đó, nền kinh tế nước ta đang
lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đời sống của nhân dân vô
cùng khó khăn, niềm tin của dân giảm sút. Nhìn ra bên ngoài, các thế
lực thù địch đang tiếp tục bao vây cấm vận, cải tổ của Liên Xô và Đông
Âu chẳng những không khắc phục được tình trạng trì trệ và khủng
hoảng mà còn bắt đầu nảy sinh những vấn đề phức tạp mới. Cải tổ
đứng trước nguy cơ chệch hướng và mất phương hướng. Ngay sau đó, chính
biến đã xảy ra. Cộng hòa Dân chủ Đức sau 40 năm tồn tại đã đổ vỡ về
thể chế. Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức mất vai trò cầm
quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa đã không còn, khi Cộng hòa Dân chủ
Đức đã nhập vào Cộng hòa Liên bang Đức.
Đảng
Cộng sản Liên Xô đã từng có lịch sử oanh liệt 100 năm, với đội ngũ
19 triệu đảng viên, kết cục cũng tan rã, cải tổ thất bại. Đảng Cộng
sản Liên Xô và hàng loạt các đảng cộng sản, công nhân ở Đông Âu mất
vai trò cầm quyền. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã. Chế
độ xã hội chủ nghĩa đã không còn tồn tại ở Liên Xô và Đông Âu. Đó
là đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng chính trị trong lịch sử chủ
nghĩa xã hội hiện thực sau bảy thập niên tồn tại. Trật tự thế giới
hai cực Xô - Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã thay đổi, tạm thời
chuyển sang một cực với thế áp đảo của Mỹ trong một thời gian ngắn
và nhanh chóng xuất hiện xu hướng “đa cực”, “đa trung tâm” trong cuộc
cạnh tranh quyền lực gay gắt giữa các thế lực tư bản chủ nghĩa
phương Tây. Lịch sử ở trong một khúc quanh thời kỳ hậu Xô-viết. Trong
tình hình, bối cảnh ấy, cách mạng nước ta và công cuộc đổi mới vừa
bắt đầu đã ở vào tình thế hiểm nghèo. Đảng ta đã xác định đường
lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là đổi mới có
nguyên tắc. Đảng quyết định phải xây dựng Cương lĩnh như một tuyên bố
chính trị (tuyên ngôn) làm ngọn cờ tập hợp quần chúng, thống nhất
nhận thức, ý chí và hành động trong toàn Đảng. Đó là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, thay thế cho Cương lĩnh năm 1951 sau 40 năm.
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh và những tư tưởng, quan điểm kiên
định cách mạng của Đảng đã đi vào cuộc sống. Những nguyên tắc của
đổi mới đã được nêu lên một cách nhất quán mà nổi bật là:
- Kiên định lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, đó là con đường phát triển của Việt Nam - con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của
Đảng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của cách mạng nước ta.
- Bất luận trong hoàn
cảnh nào cũng phải giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Để thực hiện được
những nguyên tắc căn bản đó, bảo đảm cho phương hướng chính trị của
Đảng được giữ vững, không bị chệch hướng, Đảng ta nhấn mạnh, phải
giữ vững ổn định chính trị, đó là tiền đề, là điều kiện tiên
quyết để thực hiện đổi mới. Đây phải là ổn định tích cực dựa trên
mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, lực lượng đoàn kết của toàn dân xung quanh Đảng, Nhà nước
- đó là cơ sở xã hội của Đảng, của chế độ. Sau này, qua thực tiễn
đổi mới, Đảng ta đã tổng kết, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ là một trong những mối quan hệ lớn
phản ánh quy luật và tính quy luật của đổi mới và phát triển ở
nước ta. Để giữ vững ổn định chính trị tích cực phải ra sức đổi
mới kinh tế, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Nhờ được thụ
hưởng lợi ích thiết thân hằng ngày mà nhân dân tham gia tích cực vào
công cuộc đổi mới, làm cho đổi mới thực sự là sự nghiệp sáng tạo
của nhân dân. Trong khi ra sức đổi mới kinh tế, chuyển sang kinh tế thị
trường, thay đổi mô hình phát triển, tạo động lực cho đổi mới, nhất
là động lực lợi ích (kinh tế) và dân chủ hóa (chính trị) để đưa
đất nước ra khỏi trì trệ, khủng hoảng, tiến tới ổn định và phát
triển, Đảng ta cũng ý thức rõ ràng phải bảo đảm đồng bộ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị. Song từ nguyên tắc đến giải pháp
và bước đi phải sáng tạo. Do đó, trong lãnh đạo và tổ chức chỉ đạo
đổi mới, Đảng ta xác định, trước hết và trọng tâm là đổi mới kinh
tế. Đổi mới chính trị, hệ thống chính trị phải làm từng bước và
thận trọng, không thoát ly thực tiễn, không chủ quan, duy ý chí, không
làm trái quy luật và xu thế, khi đổi mới là tất yếu, phải chủ động
đón kịp thời cơ, vượt qua thách thức. Chỉ trên cơ sở đổi mới kinh tế
có kết quả bước đầu, tạo được niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân,
giữ vững được ổn định xã hội (lòng dân) mới tiến hành đổi mới hệ
thống chính trị. Thực tế đã chứng tỏ tính đúng đắn và sự sáng
suốt trong đường lối, quan điểm, nguyên tắc đó của Đảng.
Từ Đại hội VI, Đảng
ta đã chủ động thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống để
thúc đẩy giải phóng lực lượng sản xuất và giải phóng ý thức tinh
thần xã hội, của quần chúng nhân dân với những đột phá mở đầu từ
khoán trong nông nghiệp, kết hợp nhịp nhàng giữa đổi mới từ dưới lên
với đổi mới từ trên xuống. Cương lĩnh năm 1991 đã chính thức đề cập
tới hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị để xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Nhờ đó, nước ta đã giải quyết thành công cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng từ giữa thập niên 80 của thế kỷ
XX. Cách mạng và đổi mới do Đảng lãnh đạo đã thoát kiểm trước sự
kiện chế độ xã hội chủ nghĩa tan rã ở Liên Xô và Đông Âu.
Một thành công rất to
lớn và quan trọng, có thể nói là đặc sắc là ở chỗ, Việt Nam đã
không xảy ra khủng hoảng chính trị, đã giải quyết thành công cuộc
khủng hoảng trong khi vẫn giữ vững ổn định chính trị, đã có thể không
để khủng hoảng kinh tế - xã hội trở thành khủng hoảng chính trị như
tình huống đã xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu.
Những điều trình bày
trên đây cho thấy, nhờ giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của
Đảng, của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ tích
lũy kinh nghiệm phong phú trong thực tiễn đấu tranh cách mạng được tôi
luyện và thử thách về bản lĩnh chính trị mà Đảng đã đề ra đường
lối đúng, lại có năng lực sáng tạo, kiên định về nguyên tắc, lập
trường quan điểm nhưng linh hoạt, uyển chuyển về phương pháp, sách
lược và bước đi,... nên đã giải quyết thành công nhiều vấn đề lớn
và phức tạp ngay từ những năm đầu khởi sự đổi mới.
Cách đặt vấn đề của
Đảng về mối quan hệ giữa ổn định với đổi mới và phát triển, giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị và hệ thống chính trị chẳng
những là những định hướng chính xác về chính trị mà còn thể hiện
sự nhạy cảm sâu sắc về văn hóa chính trị, là tầm nhìn (nhãn quan)
văn hóa trong đổi mới chính trị và hệ thống chính trị, thấm nhuần
và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn đổi mới,
nhìn từ yêu cầu của đổi mới, của văn hóa và phát triển.
Để đổi mới hệ thống
chính trị, đồng bộ với đổi mới kinh tế, Đảng ta đã xác định rõ,
vấn đề cốt yếu, then chốt của đổi mới hệ thống chính trị ở nước
ta là đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, trong điều kiện xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nước pháp quyền. Đổi mới hệ thống chính trị với mục
đích thực hiện dân chủ, đẩy mạnh thực hành dân chủ, nhất là dân chủ
trong Đảng, để xây dựng nền dân chủ và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân biệt sự
khác nhau giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý, phân biệt và minh
định quan hệ giữa Đảng và Nhà nước về thẩm quyền và trách nhiệm
mà trách nhiệm cao nhất là trách nhiệm đối với nhân dân và xã hội.
Giữ vững và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, được thể chế hóa
trong Hiến pháp, nhất là Hiến pháp năm 2013 về thẩm quyền của Đảng,
khẳng định và bảo vệ địa vị pháp lý của Đảng trong trọng trách
lãnh đạo và cầm quyền, làm rõ tính chính danh, tính pháp lý của
Đảng, phát triển Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm
1992, chế định hóa về trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân, dân tộc
và xã hội về những quyết định mà Đảng đưa ra. Đây thực sự là bước
tiến trong lý luận và thực tiễn của Đảng cầm quyền. Đảng hoạt động
dựa trên tinh thần hợp hiến và nêu cao vai trò, trách nhiệm bảo hiến
của Đảng, bảo đảm cho tổ chức cũng như hoạt động của Đảng, của Nhà
nước và hệ thống chính trị theo đúng những chuẩn mực dân chủ, pháp
quyền. Đảng nêu cao tinh thần gương mẫu trong thi hành pháp luật, đòi
hỏi các tổ chức đảng và mọi đảng viên phải hoạt động phù hợp với
pháp luật, không vi hiến. Đó là một trong những biểu hiện rõ nhất
của văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật và văn hóa đạo đức đối
với Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền do Đảng lãnh đạo. Trong
lĩnh vực xây dựng Đảng, từ thực tiễn đổi mới, Đảng ta xác định nội
dung toàn diện của xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ chính trị, tư tưởng,
tổ chức, đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức và đưa văn
hóa vào trong đời sống của Đảng, trong hoạt động của Nhà nước và
của hệ thống chính trị, về thực chất, là xây dựng văn hóa trong
Đảng, trong Nhà nước và hệ thống chính trị. Những văn kiện, nghị
quyết của Đảng gần đây đặc biệt nhấn mạnh về kiểm soát quyền lực,
tăng cường giám sát, phản biện, ra sức chống tha hóa quyền lực, kiên
quyết phòng, chống và đẩy lùi tham nhũng như một quốc nạn, chống suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ với 27 biểu hiện mà Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII đã nêu lên.
Đó chính là đem sức
mạnh văn hóa vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vào tăng cường hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước với quyết tâm làm tinh gọn tổ chức bộ
máy và nâng cao chất lượng công chức, đề cao trách nhiệm và chế độ
trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ.
Đó
là xây dựng văn hóa trong đổi mới hệ thống chính trị, trước hết và
quan trọng nhất là xây dựng văn hóa trong Đảng. Vấn đề hết sức quan
trọng và vô cùng hệ trọng vào lúc này là phải dựa vào nhân dân mà
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và xây dựng các đoàn
thể, các tổ chức trong hệ thống chính trị như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ từ 70 năm trước trong “Sửa đổi lối làm việc” (năm
1947) cũng như trong “Di chúc” (1965
- 1969). Có thể nói, xây dựng văn hóa trong Đảng, trong Nhà nước pháp
quyền và trong đổi mới hệ thống chính trị nói chung ở nước ta là
tạo ra nhân tố văn hóa bảo đảm cho Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng là một Đảng cách mạng chân chính, một Đảng cầm
quyền ngang tầm nhiệm vụ; làm cho Nhà nước thực sự là Nhà nước
pháp quyền dân chủ, với chính phủ kiến tạo, phục vụ xã hội, người
dân và doanh nghiệp có hiệu quả nhất, đem lại sự tăng trưởng niềm
tin, tăng trưởng mức độ hài lòng của người dân về thái độ trách
nhiệm, về đạo đức và về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
công chức trong bộ máy công quyền. Đó còn là làm cho Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị
khắc phục triệt để chứng bệnh hành chính - quan liêu, thực sự tạo ra
sức mạnh dân chủ - đoàn kết - đồng thuận vì phát triển, vì quyền
và lợi ích của người dân. Đổi mới hệ thống chính trị như vậy là
minh chứng về xây dựng văn hóa trong chính trị mà chúng ta đang nỗ
lực thực hiện, làm cho hệ thống chính trị phát huy tốt nhất vai trò
và tác dụng của tổ chức và hoạt động để xây dựng dân chủ, thực
hiện và phát huy quyền làm chủ thực chất của nhân dân.
Một
số vấn đề cấp bách cần làm ngay theo phương châm “nói đi đối với
làm” để xây dựng văn hóa trong đổi mới hệ thống chính trị
Một
là, thực hiện quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XII.
Làm cho các tổ chức
đảng, các cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp ủy và người
đứng đầu cấp ủy thấm nhuần để thực hiện xây dựng Đảng về đạo đức
và văn hóa, theo các chuẩn mực: cần, kiệm, liêm, chính, chống chủ
nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ, lảng tránh trách nhiệm và nghĩa vụ,
lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân bất minh, bất chính, bất
nghĩa. Chỉ tạo ra dư luận phê phán là không đủ, phải áp dụng các biện
pháp giáo dục và tự giáo dục trong Đảng, thức tỉnh đảng viên, công
chức về lương tâm, danh dự, lòng tự trọng, về liêm sỉ. Nói như Chủ
tịch Hồ Chí Minh, phải biết rằng tham lam là một thói xấu rất đáng
phải xấu hổ, tham ô, tham nhũng là một tội ác, là có tội với dân
với nước. Nội dung giáo dục đạo đức phải trở thành nội dung thường
trực, thường xuyên trong sinh hoạt đảng, từ chi bộ đến toàn bộ hệ
thống Đảng. Không có bảo đảm về đạo đức, về văn hóa thì không thể
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức thực chất và vững
mạnh được.
Phải xây dựng và
thực hiện bộ luật đạo đức xã hội và những quy định, kèm theo chế
tài để xử lý không có bất cứ một ngoại lệ nào đối với sự suy
thoái đạo đức trong Đảng, trong đảng viên và cán bộ.
Cái quan trọng và
cần thiết lúc này là siết chặt kỷ luật, kỷ cương, áp dụng các chế
tài trừng phạt nghiêm khắc. Muốn làm trong sạch Đảng phải loại bỏ ra
khỏi Đảng những người vi phạm đạo đức, không còn xứng đáng là đảng
viên, làm tổn thương thanh danh của một Đảng “là đạo đức, là văn
minh”.
Hai
là, rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu, đau
đớn, phải trả giá đắt từ bấy lâu nay trong vấn đề đánh giá sai, bố
trí sai cán bộ, lại buông lỏng kiểm tra, giám sát, lại nương nhẹ, nể
nang trong thi hành kỷ luật để có đủ dũng khí và trách nhiệm mà
loại bỏ sự thao túng của nhóm lợi ích, sự mờ ám bất minh, bất
chính dùng tiền bạc vật chất để mua danh, mua chức, mua quyền. Đưa ra
ánh sáng của công lý để trừng phạt nghiêm khắc cả kẻ mua - người
bán, dẫn tới suy yếu tổ chức, tha hóa quyền lực, hư hỏng cán bộ.
Phải coi đây là một nỗ lực của toàn Đảng với vai trò nòng cốt của
công tác kiểm tra Đảng, thanh tra Nhà nước, từ tổ chức đến hoạt động
để lấy lại thanh danh của Đảng, niềm tin của đảng viên và nhân dân
với Đảng, lập lại công bằng chính nghĩa trong công tác cán bộ, trong
chính sách cán bộ, trong văn hóa nhân sự và tổ chức.
Đây là việc hệ trọng
để chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của
Đảng.
Ba là, xử
lý dứt điểm tình trạng phi lý, rất không bình thường đã không còn
là cá biệt mà có ở không ít nơi đáng phải báo động về việc trong
một cơ quan, một bộ máy có quá nhiều cán bộ, có chức, có quyền, có
danh, có lợi nhưng vẫn yếu kém, suy thoái trong khi đó lại quá ít
chuyên gia, chuyên viên, nhân viên làm việc. Tình trạng này bức xúc đến
mức nếu không chấn chỉnh thì hậu quả khôn lường có thể dẫn tới đổ
vỡ, tự đổ vỡ, tự hủy hoại. Tinh gọn tổ chức bộ máy, “thà ít mà
tốt” cần người giỏi, người tốt, tận tâm, trách nhiệm, trung thực,
khiêm tốn. Tổ chức bộ máy phải có những con người như vậy là chủ
yếu. Phải giải phóng triệt để những người không xứng đáng mà ngồi
vào ghế quyền lực. Bộ máy phải phục vụ chính trị chứ chính trị
không phục vụ bộ máy. Thảo luận thì chung nhưng trách nhiệm phải
riêng, riêng tới từng người một. Chỉ dẫn có tính di huấn đó của V.I.
Lê-nin vào lúc này là sự hối thúc phải cải tổ bộ máy theo yêu cầu
gắn chặt chính trị - đạo đức - pháp luật thành một thể thống nhất.
Phải chọn đúng
người, giao đúng việc, kiểm tra thường xuyên và đãi ngộ xứng đáng.
Đòi hỏi ấy của cuộc sống, từ di huấn của V.I. Lê-nin, đồng thời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào lúc này phải được thực hiện trong cuộc cách
mạng về tổ chức, thấm nhuần yêu cầu văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản
lý mà chúng ta phải ra sức thực hiện./.
Nhận xét
Đăng nhận xét