Tóm tắtPhong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh là những đặc điểm riêng có trong cách nghĩ và hành động của Người. Trong đó, mọi suy nghĩ, hành động của Người luôn dựa trên thực tiễn sinh động của cuộc sống. Suốt quá trình tìm đường cứu nước cho đến khi giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền, xây dựng nhà nước mới Người luôn quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động, từ đó rút ra những nhận định giải đáp những yêu cầu của thực tiễn, khái quát thành lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Thực chất phong cách thực tiễn của Người là sự vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm thực tiễn đạt mức trở thành nguyên tắc thực tiễn trong suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh. Học tập theo phong cách đó có ý nghĩa rất lớn trong khắc phục bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
Phong cách thực tiễn là một trong những nét nổi bật trong hệ thống phong cách của Hồ Chí Minh. Phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh là cách nghĩ cách làm của Người luôn dựa trên thực tiễn Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn Việt Nam mà định hướng cho quá trình tìm ra hệ thống lý luận cũng như phương pháp cách mạng để quay về giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Người còn xuất phát từ thực tiễn nước ta để tiếp thu chọn lọc những gì hợp lý, đúng đắn phù hợp với tình hình đất nước nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Theo đó, có thể thấy phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh là một điển hình cho một phong cách hành động rất khoa học, trong đó, Người luôn lấy thực tiễn là cơ sở, điểm xuất phát của quá trình nhận thức chân lý. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó nghiên cứu và học tập phong cách thực tiễn của Người rất cần thiết đối với mỗi người nói, đặc biệt cán bộ, đảng viên nói riêng, nó sẽ là phương thức để loại bỏ căn bệnh giáo điều trong cán bộ, đảng viên hiện nay.
Hành trình tìm đường cứu nước và thực tiễn công tác của Người là biểu hiện sâu sắc của phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh. Trong mọi hoàn cảnh, Người luôn hướng nhận thức của mình vào thực tiễn xã hội Việt Nam để tìm ra con đường cứu nước, qua nhiều nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người tiếp thu, chắt lọc những yếu tố nào phù hợp với thực tiễn Việt Nam để quay về giải quyết những vấn đề cách mạng Việt Nam đang đặt ra. Khi ở trên cương vị là lãnh đạo cao nhất của đất nước, trong khi rất nhiều công việc bộn bề của chính quyền non trẻ. Nhưng Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 – 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện trên 700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học… Như vậy, mỗi năm có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Từ những dẫn chứng trên đủ thấy Hồ Chí Minh luôn sâu sát thực tế, từ thực tiễn cuộc sống mà đề ra các chủ trương biện pháp và đưa ra các nhận định để giải đáp các vấn đề thực tế. Đây chính là một nét riêng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, điều đó làm nên phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Ngay từ những năm đầu của cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn đất nước, thế giới để đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX đầu thể kỷ XX, dân tộc Việt Nam bị chế độ thực dân đặt ách thống trị và thực hiện chính sách bóc lột hà khắc. Nhân dân Việt Nam sống hết sức cơ cực, vừa chịu áp bức của phong kiến, vừa chịu ách đô hộ của thực dân. Đứng trước hoàn cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm áp bức, với truyền thống yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất, các phong trào yêu nước đã nổ ra ở khắp nơi. Nhưng các phong trào đó đều đi đến thất bại vì không lôi kéo được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và không phản ánh đúng được xu thế của thời đại. Tình hình đó đặt ra phải tìm ra con đường mới đúng đắn phù hợp cho dân tộc. Thực tiễn đó đã thôi thúc Hồ Chí Minh không thể rập khuôn theo những lối mòn trong tư duy về con đường cứu nước của những bậc tiền bối, mà phải căn cứ vào những điều kiện cụ thể trong nước và thế giới để có hướng đi đúng. Trong khi đó, ở phương Tây, cuộc cách mạng tư sản diễn ra mạnh mẽ, nhân dân các nước đó đã được “tự do, bình đẳng”. Thực tiễn các nước phương Tây đã thôi thúc Người phải sang tận nơi để tìm hiểu xem sự thực hư thế nào rồi từ đó trở về “cởi ách” cho dân tộc mình. Phong cách thực tiễn của Người được thể hiện trong câu trả lời với một nhà báo Liên Xô: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những chữ ấy”[1]. Rõ ràng, xuất phát từ hoàn cảnh đất nước đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải tìm ra một lối đi mới đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Thực tiễn đó và thực tiễn các nước chính quốc đã là điểm xuất phát của tư duy của Hồ Chí Minh hướng vào đó để tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc.
Suốt quá trình tìm đường cứu nước cho đến khi giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền, xây dựng nhà nước mới Người luôn xuất phát từ thực tiễn để rút ra những nhận định giải đáp những yêu cầu của thực tiễn, khái quát thành lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Trong cuộc hành trình qua các châu lục, từ châu Âu đến châu Phi, châu Mỹ Latinh, qua các nước từ Việt Nam đến Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Anh…Người luôn muốn tìm hiểu thực tiễn cuộc sống của nhân dân lao động, bằng việc trực tiếp làm những công việc của họ. Thực tiễn cuộc sống của nhân dân các nước thuộc địa và các nước tư bản đã giúp Người có những nhận thức mới, đó là những tài liệu sống vô cùng quý giá, chân thực cho những bài tố cáo tội ác của thực dân, là cơ sở để Người viết Bản án chế độ thực dân Pháp. Đồng thời là cơ sở để Người phác họa con đường cách mạng Việt Nam thể hiện trong các văn kiện quan trọng như: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ những dữ liệu của thực tiễn đó cộng với quá trình nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác là cơ sở vô cùng quan trọng giúp Người đề ra tư tưởng cách mạng tự lực cánh sinh: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”[2]. Sau này Người khẳng định tiếp, một dân tộc cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Như vậy, Hồ Chí Minh luôn trên cơ sở của thực tiễn để đề ra lý luận giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra.
Phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở việc Người luôn quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động. Khi đến với chủ nghĩa mác, Người không áp dụng máy móc một cách giáo điều, mà luôn đứng trên “mảnh đất hiện thực” cách mạng Việt Nam, trên nền của văn hóa phương Đông nói chung để vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin. Cho nên, khi học tập chủ nghĩa Mác, Người luôn quán triệt quan điểm biện chứng, học tập những gì là đúng đắn, đồng thời bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa mác trên cơ sở những vấn đề thực tiễn ở nước ta nói riêng và các nước phương Đông nói chung. Vì vậy, ngay từ khi còn hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã từng viết: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Xem xét lại chủ nghĩa mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”[3]. Như vậy, quan điểm thực tiễn luôn được Hồ Chí Minh quán triệt sâu sắc và triệt để, luôn đảm bảo lý luận thống nhất với thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận trên cơ sở thực tiễn và phù hợp với thực tiễn.
Quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lưu ý rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa mác không nên coi nó là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc, mà luôn luôn xuất phát từ thực tiễn của đất nước để vận dụng lý luận đó vào nước ta cho phù hợp; xác định hình thức, bước đi, tốc độ nào cho phù hợp: “tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”[4]. Với đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghĩa là điểm xuất phát rất thấp đi lên chủ nghĩa xã hội càng phải lựa chọn hình thái, bước đi thích hợp; tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Người nêu rõ quan điểm: “chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần”[5]. Phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư bản tư nhân, các nhà tư sản. Không phải bắt ép mà thuyết phục các nhà tư sản. “Các nhà tư sản sẽ hợp tác với Chính phủ để sản xuất dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Phải hướng về phía ấy, mà công tư hợp doanh cũng còn phải tiến lên nữa. Các nhà tư sản sẽ thấy công tư hợp doanh có lợi, không có hại, dần dần họ thấy nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội”[6]. Tiến dần lên chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ hoàn cảnh đất nước. Đây là công việc to lớn “đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục”[7]. Tất cả nhân dân cố gắng thì mới tiến mau được. Nếu không xuất phát từ thực tiễn, không nhận thức sâu sắc những đặc điểm hoàn cảnh của đất nước và rập khuôn cách làm của nước ngoài thì có thể không thành công. Lựa chọn phương pháp, con đường đi phù hợp đòi hỏi phải sáng tạo. Từ tháng 7-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở điều này. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”[8].
Trong mọi hoàn cảnh phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh đã quy định phương châm chỉ đạo hành động của Người, đó là phải luôn phân tích tình hình cụ thể của lịch sử, vận dụng sáng tạo lý luận vào những hoàn cảnh cụ thể để đưa ra những quyết sách đúng đắn cho cách mạng thành công. Sự phân tích cụ thể tình hình đối với toàn bộ vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng thuộc địa đã đưa tầm nhìn của Hồ Chí Minh soi rọi vào lịch sử hình thành học thuyết Mác và trong một “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” gửi Quốc tế cộng sản để kiến nghị về chiến lược và sách lược của phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn khẳng định rõ như sau: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”[9]Bởi vì, quan điểm thực tiễn đã giúp Hồ Chí Minh có một cái nhìn tổng quát bối cảnh xã hội và thực trạng giai cấp ở phương Đông, xét về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại và cuộc đấu tranh giai cấp đó không quyết liệt như ở đây… những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những kẻ lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ; không có tỷ phú người An Nam. Cho nên, nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng những cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa, nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì địa chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng có tờ-rớt…
Từ sự phân tích cụ thể đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[10] và trong cách mạng giải phóng dân tộc, “người ta sẽ không thể làm được cho người An Nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hôi của họ”[11]. Từ luận điểm đó, Người đã kiến nghị về cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[12]. Như vậy, nếu không có tư duy thực tiễn, Hồ Chí Minh đã không thấy được sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ở phương Đông, không tìm thấy động lực để đoàn kết mọi thành phần tạo ra sức mạnh to lớn, mà những người cộng sản phải nắm lấy để phát huy nó mới có thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Như vậy, quan điểm thực tiễn của Hồ Chí Minh không chỉ được thể hiện trong hành động mà còn thể hiện trong tư tưởng của Người, tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa tư tưởng và hành động về quan điểm thực tiễn. Sự vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm thực tiễn đến mức trở thành nguyên tắc thực tiễn trong suy nghĩ và hành động của Người. Chính điều đó đã tạo nên phong cách thực tiễn ở Hồ Chí Minh.
Trong phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh không dung chứa với bất kỳ một biểu hiện nào của căn bệnh giáo điều kể cả giáo điều về lý luận và giáo điều về kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra căn bệnh giáo điều này ở một số cán bộ, đảng viên. Đó là, Người phê phán lối tiếp thu lý luận và kinh nghiệm theo kiểu “thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc”[13]. Theo Người, một số cán bộ ta chỉ biết học tập lý luận mà không liên hệ với thực tiễn, tuyệt đối hoá vai trò của tri thức lý luận, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, lúc đó cán bộ ta tự biến mình thành “cái hòm đựng sách”– giáo điều về lý luận. Học tập và áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc, cứng nhắc, thiếu sáng tạo và không chú ý đến điều kiện lịch sử, cụ thể, làm ảnh hưởng không tốt đến chất lượng, hiệu quả hoạt động cải tạo hiện thực – giáo điều về kinh nghiệm. Cả giáo điều về lý luận và kinh nghiệm đều do lối tư duy giáo điều gây ra, đó là lối tư duy không khoa học, siêu hình, lối tư duy của những người sản xuất nhỏ, trong một nền sản xuất nhỏ. Tư duy giáo điều là tư duy không tính đến những điều mới trong thực tiễn, những điều kiện lịch sử cụ thể.
Bệnh giáo điều ở Việt Nam xuất hiện do chưa có truyền thống làm lý luận, nghiên cứu khoa học. Bệnh này thường không hiện diện dưới dạng “hàn lâm”, “kinh viện” mà xuất hiện phổ biến ở tình trạng xa rời thực tiễn, coi trọng sách vở (đến mức lạm dụng sách); nghiên cứu học tập lý luận nhưng không “tiêu hoá” được sách. Việc coi trọng (đến mức sùng bái) sách vở “kinh điển” chính lại do đọc sách quá ít hoặc không đọc đến nơi đến chốn… Lối học tập đó sẽ dẫn đến sự hình thành trong tư duy một hình thức cực đoan. Trích dẫn dần dần được thay thế cho suy nghĩ, cho lập luận lôgic. Những bài viết thoạt nhìn có vẻ giống như lý luận nhưng thực chất chỉ là tổng số những trích dẫn, sao chép suy nghĩ của người khác. Hoặc lý luận chỉ là tổng số những công thức máy móc, đơn điệu, phiến diện, làm cho lý luận biến thành “màu xám”, không có sức sống, xa rời thực tiễn, có một độ “vênh” với thực tiễn, không giúp ích gì trong việc lý giải, chỉ đạo thực tiễn. Từ đó, lại xuất hiện tư tưởng coi thường lý luận hoặc nói một đằng, làm một nẻo. Nói chỉ là nói lý luận suông, làm thì theo kinh nghiệm vụn vặt của cá nhân. Bệnh giáo điều đó hiện nay vẫn còn tồn tại không ít trong một bộ phận cán bộ, đảng viên gây hậu quả không nhỏ cho quá trình tổ chức triển khai các chỉ thị nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong cán bộ của đảng. Trong đó có đấu tranh khắc phục bệnh giáo điều hiện nay, cần học tập và rèn luyện theo cách phong cách thực tiễn của Người. Học tập, rèn luyện theo phong cách thực tiễn của Người nhằm khắc phục bệnh giáo điều trong cán bộ đảng viên ở nước ta, cần khắc phục những yếu kém trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Do vậy, khắc phục nó cần nghiên cứu kỹ những lời dạy của người trong học tập lý luận và hoạt động thực tiễn với cán bộ, đảng viên.
Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận nhằm nâng cao trình độ tư duy lý luận, chống giáo điều về lý luận, bằng việc tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận.  Tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận là tăng cường gắn các tri thức lý luận với thực tiễn công tác, thực tiễn đất nước làm cho thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhằm hiểu sâu sắc lý luận và tăng hiệu quả hoạt động thực tiễn công tác của mình. Hồ Chí Minh đã phê phán việc học tập lý luận mà không gắn với thực tiễn của cán bộ, đảng viên, là chỉ coi việc học tập lý luận chỉ để gắn cái “mác”, để có cái “bằng”, học tập để nói cho “có vẻ” lý luận; học lý luận để biết “dăm câu ba chữ” dùng làm “trang sức” hoặc để loè người khác, chứ không để nâng cao trình độ lý luận, nâng cao trình độ tư duy lên tầm lý luận; giải thích và chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn bằng lý luận. Hồ Chí Minh yêu cầu cần chống và phê phán kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa Mác – Lênin, đó chính là cách “học sách vở Mác – Lênin nhưng không học tinh thần Mác – Lênin”[14]. Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”[15]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cần phải tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận, nghĩa là học lý luận để phục vụ thực tiễn làm việc, từ đó khắc phục được bệnh giáo điều lý luận. Người chỉ ra: “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”[16]. Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng không phải vì học tập thuần túy, càng không phải học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc cả với tổ chức. Học tập trước hết để biết, để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải có thái độ học tập đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu học tập lý luận. Như vậy, thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận thực chất là quán triệt quan điểm thực tiễn trong học tập lý luận cốt là để chống bệnh giáo điều trong học tập lý luận. Thông qua đó làm thay đổi từ nhận thức đến hành động của người học, góp phần nâng cao trình độ tư duy lý luận và hiểu được vai trò của lý luận trong hoạt động thực tiễn công tác của mình.
Thứ hai, sau khi học tập lý luận phải vận dụng lý luận một cách sáng tạo và hiệu quả  vào thực tiễn công tác của mình, tiếp thu kinh nghiệm nhưng phải xét đến điều kiện cụ thể của sự vận dụng kinh nghiệm. Học tập lý luận cốt là vận dụng vào thực tiễn, suy cho cùng phục vụ cải tạo thực tiễn, nếu không sẽ biến mình thành cái hòm đựng sách, trở nên giáo điều về lý luận. Vận dụng ở đây không đơn giản là dùng những kiến thức lý luận đã học để áp dụng vào thực tế mà quan trọng hơn là để phân tích mổ xẻ thực tiễn. Phải đem những điều học được để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong công tác của bản thân mình và của Đảng. Có như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng lý luận mới có hiệu quả. Khi đem những kiến thức lý luận áp dụng vào thực tiễn phải phân tích những điều kiện cụ thể của thực tiễn để lựa chọn lý luận nào và kinh nghiệm thực tiễn nào vào cải tạo thực tiễn.
Người còn căn dặn cán bộ, đảng viên khi nghiên cứu, học tập và vận dụng kinh nghiệm của các nước vào thực tiễn cách mạng nước nhà, phải căn cứ vào thực tiễn nước nhà để tìm ra hướng đi riêng cho mình; biết lựa chọn kinh nghiệm nào cho phù hợp, nếu không sẽ phạm phải giáo điều khi vận dụng kinh nghiệm: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”[17]. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu ngoài việc nâng cao nhận thức của học tập lý luận, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế, và tính lịch sử cụ thể khi vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước mình, để khắc phục bệnh giáo điều về lý luận và giáo điều về kinh nghiệm.
Thứ ba, thường xuyên biết tổng kết kinh nghiệm, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận làm giầu tri thức cho mình. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác “…công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khoá phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”[18]. Người còn nhấn mạnh  “…cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm”[19]. Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận cần được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”[20]. Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh “Làm như thế là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn”[21].
Giá trị của phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh không những mang ý nghĩa lịch sử mà còn mang ý nghĩa thời đại sâu sắc. Học tập, rèn luyện theo những giá trị đó góp phần khắc phục những căn bệnh “nan y” trong tư duy và hành động của cán bộ, đảng viên hiện nay. Không chỉ là mẫu hình trong việc thể hiện phong cách thực tiễn mà Người còn để lại những chỉ dẫn để cán bộ, đảng viên đạt được những phong cách như của Người. Do vây, nghiên cứu những giá trị trong phong cách và những chỉ huấn của Người càng có ý nghĩa thiết thực trong cuộc học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến