TÓM TẮT: Bài viết này tổng kết, phân
tích một số công trình tiêu biểu liên quan đến phong cách và phong cách tư duy.
Từ đó, đưa ra quan niệm về phong cách và phong cách tư duy đầy đủ hơn, chỉ
ra bản chất, những yếu tố cấu thành của phong cách tư duy và mối liên hệ
giữa các yếu tố đó. Trên cơ sở phân tích các yếu tố cấu thành phong cách
tư duy, bài viết gợi mở một số vấn đề có tính chất phương pháp luận trong xây
dựng phong cách tư duy cho một cá nhân hay lớp người trong xã hội.
Từ khóa: Phong cách; phong cách
tư duy; phương pháp; tư duy.
1. Đặt vấn đề
Khái niệm phong cách nói chung và phong cách tư
duy nói riêng đã được đề cập từ rất lâu, nhưng thời gian gần đây mới được nhiều
công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, tùy theo cách tiếp cận, hướng nghiên cứu và
vận dụng mà quan niệm về phong cách và phong cách tư duy được nhìn nhận và làm
rõ ở những góc độ khác nhau. Vậy quan niệm tổng quát và đầy đủ về phong cách và
phong cách tư duy là gì? những yếu tố nào tạo nên phong cách tư duy? từ việc
nghiên cứu phong cách tư duy rút ra những vấn đề gì đặt cơ sở cho việc xây dựng
phong cách tư duy cho một cá nhân hay lớp người trong xã hội. Trong bài viết
này, tác giả cố gắng luận giải rõ các vấn đề nêu trên.
2. Quan niệm tổng quát về phong cách
Khái niệm phong cách đã có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Ở phương Tây, khái niệm phong cách được đề cập từ rất lâu và được
hiểu như là một hiện tượng độc đáo, cá biệt trong văn học, nghệ thuật.
Phong cách thường được tiếp cận trên những nội dung cơ bản sau: “Là tổng thể
những dấu hiệu đặc trưng nghệ thuật của một thời đại, một xu hướng hoặc một bút
pháp cá nhân của người nghệ sĩ… Là tổng thể các phương pháp sử dụng công cụ
ngôn ngữ đặc trưng của một nhà văn, một tác phẩm nào đó…”[1]. Cũng đồng nhất với quan điểm coi phong
cách chỉ gắn với văn học, nghệ thuật, trong Đại từ Tiếng Việt, trình bày khái
niệm phong cách: “Là phiên dạng của ngôn ngữ có những đặc điểm trong lựa chọn
kết hợp và tổ chức các phương pháp ngôn ngữ liên quan tới giao tiếp… Là toàn bộ
những thủ pháp sử dụng phương tiện ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhà văn, tác
phẩm thể loại… Là việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc tu
từ” [2].
Qua hai cách hiểu về khái niệm nêu trên, đã chỉ
ra phong cách luôn gắn với những chủ thể là những nghệ sĩ trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật. Đó là những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng
và nghệ thuật, những đặc trưng thẩm mỹ ổn định về nội dung và hình thức thể
hiện, tạo nên, những giá trị độc đáo của một nghệ sĩ. Phong cách được tạo ra
trên cơ sở thực hiện các phương pháp nhất định, biểu hiện của phong cách là
những nét riêng, độc đáo của từng cá nhân so với những cá nhân khác. Nghệ thuật
sử dụng các phương pháp của từng cá nhân khác nhau sẽ tạo nên những phong cách
khác nhau, gắn với cá nhân đó. Tuy nhiên, khái niệm phong cách chỉ giới hạn
trong những mặt hoạt động nhất định của con người, chủ yếu là văn học nghệ
thuật, chưa bao quát được các phạm vi hoạt động của con người. Vì vậy, phong
cách mới chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp, phong cách không phải là hiện tượng phổ
biến, mà là hiện tượng cá biệt và chỉ những tài năng lớn, nghệ sĩ lớn mới
có phong cách.
Phong cách nếu truy theo nguồn gốc từ tiếng Hán
Việt, thì Phong có nghĩa là phong
thái, Cách có nghĩa là cách điệu. Phong cách nghĩa
là phong thái và cách điệu. Từ cách truy theo nguồn gốc này, các nhà ngôn ngữ
học trong Từ điển Tiếng Việt đã nêu ra 2 nghĩa cơ bản của từ phong cách, một
nghĩa về phong cách ngôn ngữ, một nghĩa về phong cách nghệ thuật. Ở đây quan
tâm đến nghĩa thứ nhất có tính tổng quát về phong cách. Đó là “Những lối, những
cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự tạo nên vẻ riêng của một người
hay một loại người nào đó”[3]. Theo cách hiểu này, phong cách đã bao
quát được tất cả phạm vị hoạt động của con người, phong cách gắn với hoạt động
của con người, ở đâu có hoạt động của con người thì có phong cách ở lĩnh vực
hoạt động đó. Đúng như các tác giả của công trình “Phương pháp và phong cách Hồ
Chí Minh” cũng cho rằng, phong cách không chỉ hiểu trong phạm vi
hẹp, giới hạn trong một lĩnh vực nào đó, mà còn cần phải hiểu theo phạm vi
rộng. Theo đó, phong cách “là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong
độ, phẩm cách…đã trở thành nề nếp ổn định của một người hoặc một lớp người được
thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng
xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ
thể đó”[4].
Với cách quan niệm nêu trên,
theo mục đích tiếp cận để làm rõ biểu hiện của phong cách, nên chưa đề cập đến
cơ sở tạo nên phong cách, nhưng đã chỉ ra khá đầy đủ biểu hiện của phong cách.
Theo đó, phong cách không chỉ giới hạn trong phạm vi văn hóa nghệ thuật mà bao
quát được đầy đủ các mặt hoạt động của con người, trong tất cả các hoạt động
của con người đều có những phong cách riêng. Khi xem xét phong cách của con
người phải có cách nhìn toàn diện và biện chứng, phải xem xét trên tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội đa dạng và phong phú mà người đó tham gia. Đồng
thời, khái niệm cũng đặt ra những yêu cầu khi những cái riêng biệt, cái độc đáo
đó phải mang những giá trị, phải là phong thái, phong độ, cung cách tạo nên
những vẻ riêng biệt của chủ thể hoạt động.
Như vậy, có thể đi tới khẳng định: Phong cách là những cái riêng, độc đáo có tính hệ thống, ổn định
và đặc trưng của chủ thể trên cơ sở cách thức thực hiện các phương pháp hoạt
động nhất định của chủ thể. Phong cách có quan hệ chặt chẽ với cách
thức thực hiện các phương pháp hoạt động với nội dung và kết quả của hoạt động.
Bất cứ lĩnh vực hoạt động nào mang dấu ấn cá nhân, thể hiện cái riêng, cái độc
đáo của một con người nào đó trong hoạt động thì đều tạo nên phong cách của họ,
không riêng gì trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Từ một người bình thường đến
một lãnh tụ, một vĩ nhân… đều có phong cách.
Vì phong cách có quan hệ chặt chẽ với cách thức
thực hiện các phương pháp hoạt động với nội dung và kết quả của hoạt động.
Nên, khi nghiên cứu phong cách phải gắn với hiệu quả giải quyết những
yêu cầu hoạt động thực tiễn của con người đặt ra. Hay nói cách khác,
những cái riêng, cái độc đáo trong lề lối, cung cách, cách thức, phong thái,
phong độ, phẩm cách…đã trở thành nề nếp ổn định của một người hoặc một lớp
người được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh
hoạt, ứng xử, diễn đạt nhưng phải gắn với hiệu quả giải quyết những công việc
của họ thì mới trở thành phong cách. Vì trong thực tế, có những cái riêng, cái
độc đáo không mại lại hiệu quả giải quyết các công việc. Vậy khi nào việc sử
dụng phương pháp hoặc kết hợp các phương pháp của các nhân sẽ tạo nên phong
cách. Khi họ sử dụng hoặc kết hợp nhuẫn nhuyễn các phương pháp tạo nên những nề
nếp ổn định và phản ứng mau lẹ, hiệu quả trước những yêu cầu của hoạt động thực
tiễn đặt ra. Khi đó, những cái riêng biệt, đặc trưng của cá nhân phải mang dấu
ấn văn hóa hay trở thành kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động của cá nhân đó mới trở
thành phong cách.
Phong cách được tạo nên bởi các thức sử dụng các
phương pháp hoạt động nhất định. Tất nhiên, khi đi nghiên cứu phong cách của
một người, phải luôn thấy được phong cách chịu sự tác động mạnh mẽ từ môi
trường hoạt động, bao gồm các nhân tố như truyền thống văn hóa, lối sống, thói
quen, điều kiện sống, sự trải nghiệm thực tiễn, dấu ấn cá nhân… Phong cách
không mang tính bẩm sinh, mà nó được hình thành bởi sự phấn đấu, trau dồi không
ngừng của chủ thể. Phong cách là cái chung, mỗi lĩnh vực hoạt động của con
người lại có phong cách riêng. Theo đó, khi đi nghiên cứu phong cách trong mỗi
lĩnh vực hoạt động của con người cần vận dụng và quán triệt mối quan hệ biện
chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù. Đây là những định hướng để nghiên cứu
phong cách tư duy – một lĩnh vực cụ thể của phong cách.
3. Phong cách tư duy – Phương thức tiếp cận, bản chất, cấu trúc
và nội dung chủ yếu
Tư duy và phong cách tư duy có quan hệ mật thiết
với nhau. Tư duy là cơ sở, điều kiện để hình thành phong cách tư duy. “Tư duy – sản phẩm cao nhất của cái vật chất
được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới
quan trong các khái niệm, phán đoán, suy luận”[5]. Đó là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan theo con đường biện chứng của nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Như vậy, tư duy là quá trình
khám phá tìm ra bản chất quy luật vận động của đối tượng nhận thức nhằm ra tri
thức mới về sự vật qua đó chỉ đạo hoạt động cải tạo hiện thực của chủ thể. Nếu
như, cách thức sử dụng các phương pháp nhất định tạo nên cái riêng, độc đáo có
tính hệ thống, ổn định của một người thì được gọi là phong cách, thì phong cách
tư duy cũng phải là cách thức để tìm ra tri thức về đối tượng, từ đó đề ra biện
pháp để cải tạo đối tượng nhận thức ở từng chủ thể nhận thức khác nhau sẽ tạo
ra phong cách tư duy khác nhau.
Theo tác giả Trần Văn Phòng “Phong cách tư duy
là những đặc điểm riêng, có tính hệ thống, ổn định trên cơ sở của một cách thức
thực hiện phương pháp tư duy của riêng cá nhân nào đó”[6]. Khái niệm này đã phản ánh phong cách tư
duy là một lĩnh vực cụ thể của phong cách, cơ sở tạo nên phong cách tư duy là
cách thức thực hiện phương pháp tư duy nhằm tìm ra tri thức về đối tượng. Tuy
nhiên, trong thực tiễn có nhiều phương pháp tư duy khác nhau: phương pháp tư
duy biện chứng; phương pháp tư duy siêu hình; phương pháp tư duy kinh nghiệm..,
có những phương pháp phản ánh đầy đủ các mặt cách yếu tố, các mối quan hệ,
trong những điều kiện không gian thời gian khác nhau sẽ tìm ra đúng bản chất,
quy luật vận động của đối tượng. Có những phương pháp chỉ tìm ra tri thức gần
đúng về đối tượng. Do đó, kết quả tìm ra tri thức và hiệu quả cải tạo đối tượng
nhận thức sẽ không cao. Vì vậy, cũng như nghiên cứu về phong cách, khi đi
nghiên cứu phong cách tư duy cũng phải luôn gắn với hiệu quả của phong cách tư
duy ấy có phù đáp ứng yêu cầu nhận thức và cải tạo đối tượng. Nên có thể quan
niệm: phong cách tư duy là một bộ phận của phong cách nói chung, đó là
những đặc điểm riêng, có tính hệ thống, ổn định của chủ thể trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn, nó phản ánh năng lực tư duy của chủ thể thông qua nghệ thuật
thực hiện các phương pháp tư duy, nhằm đạt hiệu quả của hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Qua đó, tạo nên những giá trị
riêng trong tư duy và hành động thực tiễn của chủ thể.
Về bản chất, phong cách tư duy bàn đến ở đây là phong cách
tư duy khoa học, nó phản ánh đặc điểm riêng biệt của cá nhân, thông qua nghệ
thuật thực hiện phương pháp tư duy, tạo nên tính ổn định tương đối và đặc trưng
của họ khi xử lý các tình huống tư duy. Phong cách tư duy không phải là cái
nhất thành bất biến mà luôn thay đổi, tùy thuộc vào tình huống tư duy. Phong
cách tư duy không tự phát hình thành mà là một quá trình hình thành có định
hướng rõ rệt. Để có phong cách tư duy, phải thường xuyên được đào tạo, bồi
dưỡng và tự rèn luyện nâng cao trình độ tri thức lý luận, năng lực tư duy,
phương pháp tư duy, tích cực hoạt động thực tiễn để rèn luyện và kiểm nghiệm
hiệu quả phương pháp tư duy.
Phong cách tư duy có quan hệ mật thiết với
phương pháp tư duy, nhưng không đồng nhất với nó. Phương pháp tư duy là công
cụ, phương tiện để tạo nên phong cách, còn phong cách tư duy là hình thức biểu
hiện của kết quả nghệ thuật sử dụng phương pháp tư duy. Nội dung của phong cách
tư duy là phương pháp tư duy, còn phong cách là hình thức biểu hiện của nghệ
thuật sử dụng phương pháp tư duy. Đồng thời, phong cách tư duy cũng phản ánh
tính đúng đắn khoa học của phương pháp tư duy mà chủ thể ấy sử dụng. Việc sử
dụng thành thạo và hiệu quả các phương pháp tư duy như một nghệ thuật tạo nên
những giá trị và dấu ấn riêng biệt như một đặc trưng văn hóa trong nhận thức và
giải quyết những vấn đề của thực tiễn, sẽ tạo nên phong cách tư duy của chủ thể
đó. Thực tế cho thấy, phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp tư duy phổ
biến nhất, khoa học nhất, từ trước đến nay chưa có một phương pháp tư duy nào
vượt qua được phương pháp này. Do vậy, có thể thấy, phong cách tư duy là nét riêng độc đáo, nét cá nhân, nét riêng tư
của một người nào đó trong cách thức thực hiện phương pháp tư duy biện chứng
duy vật.
Phong cách tư duy là sự thống nhất giữa cách
thức thực hiện phương pháp tư duy với nội dung và kết quả của tư duy. Bởi lẽ,
khi tư duy tức là chủ thể đang thực hiện một phương pháp tư duy nhất định. Bằng
phương pháp đó và thông qua phương pháp đó với những nội dung tri thức nhất
định mà chủ thể huy động vào quá trình tư duy, chủ thể sẽ đạt được kết quả của
quá trình tư duy – đó là những tư tưởng, quan điểm. Có những người sử dụng
phương pháp biện chứng, có những người sử dụng phương pháp kinh nghiệm, có
những người sử dụng phương pháp siêu hình.., với những tri thức tương ứng mà
chủ thể huy động trong vốn tri thức của mình, để nghiên cứu tìm hiểu qua đó tìm
ra tri thức về đối tượng. Như vậy, mỗi chủ thể sẽ có những cách thức khác nhau
để đạt tới kết quả của quá trình tư duy, tạo nên những phong cách tư duy khác
nhau. Do đó, phong cách tư duy là sự thống nhất, hòa quyện của các yếu tố:
phương pháp tư duy, nội dung tư duy, kết quả tư duy. Sự tổng hợp của các yếu tố
này tạo thành những đặc trưng ở mỗi chủ thể khác nhau. Như vậy, sử dụng phương
pháp tư duy khoa học như một nghệ thuật là yếu tố quan trọng nhất tạo nên phong
cách tư duy. Tuy nhiên, vốn tri thức mà chủ thể có được huy động vào quá trình
tư duy và kết quả của quá trình tư duy có tìm ra tri thức đúng đắn về đối tượng
và biện pháp cải tạo đối tượng là điều kiện không thể thiếu để phong cách tư
duy đó trở thành phong cách tư duy khoa học.
Để tìm hiểu phong cách tư duy của chủ thể phải
thông qua cách tư duy (cách đạt tới tư tưởng, quan điểm và nội dung quan điểm,
tư tưởng đó) và cách hoạt động thực tiễn (cách làm) của chủ thể. Vì quá trình tư duy là quá trình trừu tượng, khó
xem xét, nhưng kết quả tư duy phản ánh bằng các quan điểm, tư tưởng. Kết quả
của tư duy cũng phản ánh chủ thể tư duy dã sử dụng và sử dung hiệu quả đến đâu
các phương pháp tư duy nào. Nếu như các quan điểm, tư tưởng đó phản ánh đúng
bản chất, quy luật của thực tiễn thì cách tư duy đó đúng đắn và ngược lại.
Phong cách tư duy còn là sự tổng hợp của các yếu tố cách thức tư duy, nội dung
tư duy, kết quả tư duy và mục đích của tư duy. Mỗi chủ thể có cách tư duy để
đạt tới tri thức về đối tượng khác nhau sẽ tạo ta những phong cách tư duy khác
nhau. Tuy nhiên, quá trình hiện thực hóa tri thức, quan điểm tư tưởng trong
hoạt động thực tiễn cũng cần phải sử dụng tư duy để phân tích, đánh giá thực
tiễn; lựa chọn các phương pháp hoạt động, các tri thức cần thiết; kết hợp tri
thức và phương pháp… để hoạt động thực tiễn hóa tri thức, quan điểm, tư tưởng
đạt hiệu quả. Quá trình này ở các chủ thể khác nhau sẽ khác nhau, tạo nên một
phong cách riêng ở mỗi chủ thể khác nhau. Do đó, muốn tìm hiểu phong cách tư
duy của một chủ thể nhất định phải thông qua nghiên cứu kết quả của tư tưởng
(cách nghĩ) hoặc hiệu quả của cách thức thực tiễn hóa tư tưởng (cách làm) của
chủ thể ấy.
Ở đây, cũng cần nói thêm rằng, tư tưởng không
phải bắt nguồn từ tư duy thuần túy, càng không phải là sản phẩm của tư duy
thuần túy. Do vậy, cần phải phân biệt rõ tư duy và tư tưởng, không thể đồng
nhất hai khái niệm này giống như một số người từ trước đến nay thường nhầm lẫn.
Vì tư duy là quá trình con người suy ngẫm, xuất phát từ những cứ liệu sinh động
của thực tiễn và từ tư tưởng đương thời để đi tới xác định tư tưởng của chính
mình. Đó là kết quả của quá trình hoạt động của não người, đi từ nhận thức cảm
tính đến nhận thức lý tính (từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng), đó
là quá trình đi sâu vào các tầng bản chất của sự vật, nghiên cứu quá trình tồn
tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng, của đối tượng để từ đó
phát hiện ra tính quy luật của đối tượng. Đỉnh cao của quá trình này là khái
niệm hoá, từ đó mà xác định các luận điểm, những tư tưởng được thể hiện bằng
những mệnh đề phán đoán, suy lý. Như vậy, tư tưởng là kết quả của một quá trình
tư duy, mà nguồn gốc của nó là ở ngoài tư duy của chủ thể. Khoa học tư duy có
nhiệm vụ nghiên cứu và làm sáng tỏ quá trình đó. Thực chất của quá trình này,
theo Ph.Ăngghen: “là sự thống nhất giữa lôgíc học và phép biện chứng”[7]. Còn V.I. Lênin lại cho rằng: “đó là sự
thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học”[8].
Dựa theo các yếu hợp thành, phong cách tư duy được
cấu trúc gồm: trình độ tri thức; phương pháp tư duy khoa
học; năng lực tư duy; trải nghiệm thực tiễn; cảm xúc, tình cảm và ý chí, bản
lĩnh cá nhân (khí chất cá nhân). Trong các yếu tố đó, mỗi yếu tố có vị trí vai
trò khác nhau trong sự tồn tại phụ thuộc lẫn nhau, đưa đến việc hình thành
phong cách tư duy. Tuy nhiên, phương pháp tư duy là yếu tố cốt lõi tạo nên
phong cách tư duy. Do vậy, phong cách tư duy là tổng hòa của các yếu tố trên, phong cách tư duy vừa phụ thuộc vào các yếu tố
trên, đồng thời cũng là biểu hiện của các yếu tố đó.
Trình độ tri thức đó là mức độ nông, sâu về sự
hiểu biết, nắm bắt quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và chính
bản thân con người, là “những điều hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện
tượng, tự nhiên hoặc xã hội”. Trình độ tri thức bao gồm: tri thức kinh nghiệm,
tri thức lý luận, tri thức nghề nghiệp. Có tri thức làm cho hoạt động con người
trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Chỉ khi nào con
người đạt tới mức độ hiểu sâu sắc về bản chất, quy luật vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng, thì khi đó mới có đủ cơ sở để nhận thức và
hoạt động sáng tạo. Trình độ tri thức là cơ sở, nền tảng để con người đi sâu
tìm hiểu khám phá tìm ra bản chất của đối tượng, là những nguồn thông tin đóng
vai trò là yếu tố đầu vào cho tư duy, là nguyên liệu cho
phương pháp tư duy vận hành. Nghĩa là những nguyên liệu đầu vào để
chủ thể vận dụng nó nhằm tìm ra cách thức, con đường để khám phá, tìm ra bản
chất và biện pháp cải tạo đối tượng. Thiếu yếu tố đầu vào này chủ thể sẽ không
có những nguyên liệu cho quá trình tư duy diễn ra. Do đó, sẽ không có những nét
riêng mang dấu ấn cá nhân làm cơ sở tạo nên phong cách tư duy.
Phương pháp tư duy là hệ
thống những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn của
con người, xuất phát từ các quy luật vận động của khách thể mà con người đã
nhận thức được (dưới dạng lý luận). Hay nói cách khác phương pháp tư duy là tri
thức về cách thức, con đường để nhận thức và cải tạo đối tượng xuất phát từ
chính bản thân đối tượng mà chủ thể tìm ra. Tri thức này có được là do khả năng
phân tích, tổng hợp, khái quát, tổng kết đánh giá về đối tượng và vận dụng
những tri thức đã có một cách khoa học, để nghiên cứu tìm hiểu, khám phá đối
tượng nhằm tìm ra tri thức mới về nó. Như vậy, việc vận dụng tri thức đã có vào
khám phá tìm ra bản chất, cách thức con đường cải tạo đối tượng khác nhau sẽ
tạo ra những phong cách khác nhau ở từng chủ thể. Do đó, cùng được trang bị một
phương pháp tư duy như nhau, nhưng ở từng chủ thể khác nhau vận dụng phương
pháp tư duy đó thế nào sẽ tạo ra những phong cách tư duy riêng gắn với chủ thể
đó. Việc vận dụng phương pháp tư duy ấy thế nào, để tạo nên phong cách tư duy
chính là năng lực tư duy. Nghĩa là, việc sử dụng phương pháp tư duy kết hợp với
những tri thức đã có để “nhào nặn” khám
phá, tác động vào đối tượng để tìm ra những tri thức mới về đối tượng ở từng
chủ thể khác nhau sẽ tạo ra những phong cách khác nhau. Việc “nhào nặn” đó đạt đến mức độ cao hay thấp phụ thuộc
vào năng lực tư duy của chủ thể ấy.
Năng lực tư duy là khả năng đi sâu tìm hiểu bản
chất các sự vật hiện tượng, giúp con người vạch ra những quy luật ẩn dấu đằng
sau các sự vật hiện tượng để nắm bắt vận dụng trong quá trình thực tiễn. Hay
nói cách khác năng lực tư duy còn là khả năng huy động những phẩm chất trí tuệ,
tri thức, phương pháp tư duy khoa học đã có để khám phá đối tượng để tìm ra
cách thức, tiếp cận, nghiên cứu đối tượng để từ đó tìm tri thức mới về đối
tượng và cách thức cải tạo đối tượng. Việc huy động những phẩm chất cá nhân,
tri thức, phương pháp tư duy đã có nhằm tìm ra tri thức mới về đối tượng mang
những dấu ấn, sắc thái và mức độ hiệu quả ở từng chủ thể khác nhau sẽ khác nhau
tùy thuộc vào năng lực tư duy của từng chủ thể. Chính điều này đã tạo nên những
phong cách tư duy khác nhau ở từng chủ thể khác nhau. Như vậy, phong cách tư
duy khoa học vừa phản ánh đồng thời vừa phụ thuộc vào năng lực tư duy của chủ
thể.
Trải nghiệm thực tiễn là nền tảng để con người
hiểu sâu sắc về tri thức đã có, là điều kiện để kiểm nghiệm tri thức về cách
thức con đường, biện pháp để khám phá cải tạo đối tượng. Qua đó, bổ sung những
tri thức mới về đối tượng và đúc rút kinh nghiệm và khái quát thành tri thức
mới, dự báo xu hướng vận động của đối tượng muốn cải tạo trong thế giới hiện
thực. Trải nghiệm thực tiễn còn là điều kiện, môi trường để chủ thể rèn luyện
phương pháp tư duy, năng lực tư duy, tạo nên tính ổn định và từ đó tạo ra những
sắc thái riêng trong cách thức tư duy của chủ thể. Bởi vậy, chủ thể có thể phản
ứng mau lẹ, hiệu quả trong những tình huống tư duy, từ đó phong cách tư duy
được hình thành và phát triển.
Trải nghiệm thực tiễn còn là nguồn gốc tạo ra
cảm, xúc tình cảm. Cảm xúc, tình cảm vai trò to lớn trong hoạt động của con
người nói chung hoạt động nhận thức nói riêng. Nó kích thích con người hứng
thú, say mê tìm tòi sáng tạo, khám phá đối tượng, là động lực của mọi năng lực
nói chung, phát triển năng lực tư duy nói riêng. Ý chí và bản lĩnh là một trong
những phẩm chất quan trọng của con người, nói nên lòng quyết tâm vượt qua mọi
khó khăn trở ngại để đạt được mục đích trong hoạt động nhận thức. Nhờ có ý chí,
nghị lực mà chủ thể có quyết tâm vượt qua mọi khó khăn trở ngại để đạt được mục
đích của nhận thức, đồng thời nhờ có ý chí, nghị lực mà chủ thể vượt qua mọi
trở ngại, tích cực trau đồi, rèn dũa công cụ nhận thức (phương pháp tư duy).
Qua đó, rèn luyện cho mình phong cách tư duy khoa học.
Khí chất cá nhân hoặc là phẩm chất tâm sinh lý
của mỗi cá nhân, là tổng hợp hữu cơ các yếu tố bẩm sinh, sự thông minh, linh
hoạt, nhanh nhạy, năng khiếu, tính cách… Khí chất cá nhân là nền tảng vật chất
tự nhiên của các yếu tố chủ quan, cái rất cần thiết cho sự hình thành phong
cách tư duy. Chính yếu tố này làm cho mỗi cá nhân có tốc độ phát triển năng lực
tư duy khác nhau. Khí chất cá nhân còn phản ánh cái riêng, cái độc đáo, cái
phong phú, đa dạng trong cách tư duy của mỗi người, tạo cơ sở cho những đặc trưng
khác nhau trong phong cách tư duy của mỗi cá nhân.
Như vậy, trong các yếu tố
cấu thành phong cách tư duy, phương pháp tư duy là yếu tố cốt lõi nhất; tri
thức khoa học là yếu tố đầu vào cho tư duy, là nguyên liệu cho phương pháp tư
duy vận hành; năng lực tư duy phản ánh khả năng sử dụng phương pháp tư duy, vì
vậy phong cách tư duy vừa phụ thuộc vừa phản ánh năng lực tư duy; khí chất cá
nhân tạo ra những sắc thái riêng, những cái phong phú trong đặc trưng phong
cách tư duy của các chủ thể khác nhau. Sự tương tác biện chứng giữa các yếu tố
này là cơ sở để hình thành nên phong cách tư duy ở mỗi cá nhân. Tuy nhiên,
phong cách tư duy không tự giác hình thành trên cơ sở các yếu tố đó, mà cần có
sự tích cực học tập và rèn luyện của mỗi cá nhân.
4. Những vấn đề rút ra từ việc nghiên cứu phong cách tư duy
Phong cách tư duy khoa học có ý nghĩa và vai trò
quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của mỗi con người. Vì vậy, để
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thực tiễn, rất cần thiết phải
xây dựng một phong cách tư duy khoa học cho mỗi cá nhân và lớp người trong xã
hội. Từ quan niệm về phong cách tư duy, có thể rút ra một số vấn đề có tính
chất phương pháp luận, nhằm xây dựng phong cách tư duy khoa học. Một là, không ngừng nâng cao trình độ tri thức khoa học
toàn diện trên các lĩnh vực, đặc biệt là tri thức chuyên môn. Vì đây là yếu tố
nền tảng của tư duy, là cơ sở để tư duy vận hành, là yếu tố ban đầu cho sự hình
thành phong cách tư duy. Hai là, nắm vững,
trau dồi và rèn luyện cách thức vận dụng phương pháp tư duy biện chứng duy vật
vào thực tiễn một cách linh hoạt và sáng tạo. Vì phương pháp tư duy biện chứng
duy vật là yếu tố cốt lõi cho việc hình thành phong cách tư duy khoa học, vận
dụng thành thạo phương pháp tư duy biện chứng duy vật sẽ là yếu tố trực tiếp
cho việc hình thành phong cách tư duy. Ba là, tạo môi
trường thực tiễn nhằm kiểm nghiệm và rèn luyện phương pháp tư duy, hình thành
nên phong cách tư duy khoa học.
5. Kết luận
Nói đến phong cách bao giờ cũng gắn với con
người, với những chủ thể xác định, nó là những nét riêng, độc đáo, đặc sắc và
mang tính ổn định đặc trưng cho chủ thể đó. Phong cách có quan hệ chặt chẽ với
phương pháp, phong cách là nghệ thuật sử dụng phương pháp, là phương pháp đã
được chủ thể hóa mang dấu ấn của chủ thể, phong cách còn là hình thức thể hiện
của phương pháp. Phong cách tư duy được hình thành trên cơ sở phương pháp tư
duy biện chứng duy vật, việc vận dụng phương pháp tư duy biện chứng duy vật ở
các chủ thể khác nhau, với mức độ thành công và hiệu quả đến mức nào sẽ tạo ra
những phong cách tư duy ở những chủ thể khác nhau. Để xây dựng phong cách tư
duy khoa học cho mỗi cá nhân hay lớp người trong xã hội, cần trang bị những yếu
tố cốt lõi cấu thành phong cách tư duy, đồng thời phải tăng cường rèn luyện
cách thức vận dụng phương pháp tư duy biện chứng duy vật vào thực tiễn, để tạo
ra tính ổn định và hiệu quả trong cách thức vận dụng ấy, từ đó phong cách tư
duy mới được hình thành và phát triển.
Nhận xét
Đăng nhận xét