HỌC TẬP
PHONG CÁCH LÝ LUẬN HỒ CHÍ MINH CỦA GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC NHÀ
TRƯỜNG HIỆN NAY
Tóm tắt: Phong cách lý luận Hồ Chí
Minh là những đặc trưng riêng có, trong cách thức, phương pháp tiếp
thu tinh hoa lý luận của phương Đông, phương Tây, đặc biệt là lý luận Mác
– Lênin, tạo nên những giá trị riêng về các vấn đề lý luận của Hồ Chí Minh.
Những đặc trưng và giá trị trong phong cách lý luận Hồ Chí Minh không chỉ có ý
nghĩa chỉ đạo thực tiễn cách mạng Việt Nam mà còn là một tài sản vô giá,
luôn có sức hấp dẫn, là chuẩn mực để giảng viên lý luận chính trị học tập và
rèn luyện theo, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nghiên cứu, phát triển
lý luận; đấu tranh, tuyên truyền bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.
Từ khoá: Phong cách; lý luận; Hồ Chí
Minh; giảng viên lý luận chính trị.
Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và
hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học,
đạo đức và thẩm mỹ. Trong mọi lĩnh vực hoạt động, từ lĩnh vực tư
duy đến hành động, từ cách diễn đạt đến cách ứng xử, cách sinh hoạt… đều mang
đậm dấu ấn riêng có, rất đặc trưng của Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực lý luận, Hồ
Chí Minh không tự nhận mình là nhà lý luận, nhưng những vấn đề lý luận của
Người, mang một phong cách rất đặc trưng. Có thể thấy, phong cách lý luận
(PCLL) Hồ Chí Minh là những đặc trưng riêng có, giá trị cốt lõi trong cách
thức, phương pháp tiếp thu, bổ sung, phát triển làm phong phú tinh hoa văn hóa
dân tộc, nhân loại và lý luận Mác – Lênin, phù hợp yêu cầu thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Những đặc trưng trong PCLL Hồ Chí Minh bao gồm:
1. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong tiếp thu, nghiên cứu, tìm ra lý
luận mới. Đây cũng là giá trị nổi bật, xuyên suốt và
thống nhất trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Từ những
ngày đầu trên hành trình tìm đường cứu nước, việc lựa chọn hướng đi, đến lựa
chọn con đường cách mạng đều cho thấy sự độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí
Minh. Người không giáo điều, rập khuôn, vay mượn nguyên xi cái gì của người
khác, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình tìm tòi, suy nghĩ, truy đến tận
cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý cách mạng, phù hợp với
nhu cầu và điều kiện thực tiễn của đất nước. Theo đó, độc lập ở Người, là cách
nghĩ, cách làm không lệ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi, không giáo
điều. Tự chủ là tự mình làm chủ mọi suy nghĩ và hành động của mình, làm chủ bản
thân và công việc của mình, tự bản thân mình phải thấy trách nhiệm lớn lao
trước đất nước và dân tộc. Độc lập, tự chủ trên tinh thần: “Độc lập nghĩa là
chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở
ngoài vào”[1]. Tuy nhiên, độc lập, tự chủ không đồng
nghĩa với quan niệm siêu hình, hạn chế trong khuôn khổ những tư tưởng lý luận
đã có, mà luôn liên hệ với những tư tưởng, lý luận tiến bộ của nhân loại.
Sáng tạo là vận dụng đúng những lý luận chung,
lý luận tiến bộ của nhân loại cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù của dân
tộc Việt Nam. Sáng tạo còn là sẵn sàng từ bỏ những cái gì đã cũ đã lỗi thời,
những gì không phù hợp với thực tiễn, những gì đúng trước kia, nhưng nay không
còn phù hợp. Đồng thời sáng tạo cũng là tìm tòi, đề xuất những cái mới, để có
thể trả lời được những yêu cầu của cuộc sống đặt ra. Cái mới, cái sáng tạo của
Hồ Chí Minh là phù hợp với quy luật khách quan, đồng thời phù hợp với quy luật
phát triển chung của xã hội loài người. Cái mới có thể kế thừa cái cũ, bổ sung
giá trị mới, làm cho cái mới khác về chất so với cái cũ. Cái mới cũng là cái
chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Sự kế thừa đó mang tính biện chứng, theo
tinh thần: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. .. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng
phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát
triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”[2]. Nên, những lý luận của Hồ Chí Minh là sự
tích hợp tinh hoa tư tưởng lý luận của dân tộc và nhân loại, Đông và Tây.
2. Tư duy mở rộng, lựa chọn những vấn đề lý luận thiết thực với
cách mạng Việt Nam. Nghĩa là, trong tư duy của Người luôn suy
nghĩ, luôn hướng tư duy của mình vào những vấn đề cần thiết, cụ thể của cách
mạng. Trong mọi suy nghĩ và hành động của Người luôn lấy nhu cầu và đặc điểm
của thực tiễn dân tộc, cùng xu thế phát triển của thời đại, làm định hướng cho
tư duy và hành động. Trong hành trình đi tìm lý luận cách mạng, tư duy của
Người luôn đau đáu tìm xem hiện thực Việt Nam thiếu những gì, để tiếp thu, thâu
thái những cái thiết thực nhất, trực tiếp nhất phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp ở nước ta. Ngay từ những năm đầu của cuộc đời hoạt
động cách mạng, vấn đề tự do cho dân tộc và bình đẳng giữa các dân tộc đã làm
điểm xuất phát và là động lực để Hồ Chí Minh đi tìm chân lý. Rõ ràng, xuất phát
từ hoàn cảnh đất nước đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải tìm ra một lối đi
mới đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Thực tiễn đó và thực tiễn các nước
chính quốc đã là điểm xuất phát của tư duy của Hồ Chí Minh hướng vào đó để tìm
ra lý luận cách mạng của dân tộc.
Khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy lý
luận cách mạng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin là
một học thuyết cách mạng rộng lớn, bao quát nhiều vấn đề về giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, chủ yếu hướng vào các nước tư bản
phát triển nhất. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ nhu cầu trước mắt
là giải phóng dân tộc ở thuộc địa, nên Người đã biết lựa chọn, tiếp thu những
cái cần thiết cho giai đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, phù hợp với điều
kiện lịch sử, đất nước và con người Việt Nam, từ đó đề ra được đường lối đúng
đắn, bước đi thích hợp cho cách mạng Việt Nam. Khi áp dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng, Người luôn quán triệt quan điểm biện chứng,
học tập những gì là đúng đắn, đồng thời bổ sung, phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác cho phù hợp với thực tiễn ở nước ta nói riêng và các nước phương Đông
nói chung. Vì vậy, ngay từ khi còn hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã từng
viết: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng
cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã
xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng
lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân
loại. Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân
tộc học phương Đông”[3].
3. Lý luận luôn xuất phát từ thực tiễn. Sự gắn bó giữa lý luận và thực tiễn là đặc điểm nổi bật trong
phong cách tư duy của Hồ Chí Minh và thể hiện rõ nhất trong toàn bộ cuộc đời
hoạt động của Người. Trong đó tư duy lý luận của Người luôn dựa trên thực tiễn
sinh động của Việt Nam để tìm ra lý luận cách mạng, cái đích của lý luận là
hướng đến độc lập – tự do – hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Ngay từ những ngày
đầu trên con đường tìm lý luận cách mạng mới cho cách mạng Việt Nam, Người luôn
hướng tư duy vào thực tiễn cách mạng cách nước chính quốc và thực tiễn khủng
hoảng đường lối cứu nước trong nước, để đề ra phương hướng cho việc tìm lý luận
cách mạng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: tự
do, bình đẳng, bác ái… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những chữ ấy”[4].
Suốt quá trình tìm đường cứu nước cho đến khi
giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền, xây dựng nhà nước mới Người luôn
xuất phát từ thực tiễn để rút ra những nhận định giải đáp những yêu cầu của
thực tiễn, khái quát thành lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Trong cuộc hành
trình qua các châu lục, từ châu Âu đến châu Phi, châu Mỹ Latinh, qua các nước
từ Việt Nam đến Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Anh…Người luôn muốn tìm hiểu thực tiễn
cuộc sống của nhân dân lao động, bằng việc trực tiếp làm những công việc của
họ. Thực tiễn cuộc sống của nhân dân các nước thuộc địa và các nước tư bản đã
giúp Người có những nhận thức mới, đó là những tài liệu sống vô cùng quý giá, chân
thực cho những bài tố cáo tội ác của thực dân, là cơ sở để Người viết Bản án
chế độ thực dân Pháp. Đồng thời là cơ sở để Người phác họa con đường cách mạng
Việt Nam thể hiện trong các văn kiện quan trọng như: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ những dữ liệu của thực tiễn đó cộng với quá
trình nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác là cơ sở vô cùng quan trọng giúp
Người đề ra tư tưởng cách mạng tự lực cánh sinh: “Vận dụng công thức của Các
Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”[5]. Sau này Người khẳng định tiếp, một dân
tộc cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập.
Quá trình lãnh đạo, xây dựng
chủ nghĩa xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không coi lý luận về chủ nghĩa xã
hội của chủ nghĩa Mác là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc, mà
luôn luôn xuất phát từ thực tiễn của đất nước để vận dụng lý luận đó vào nước
ta cho phù hợp; xác định hình thức, bước đi, tốc độ nào cho phù hợp: “tuy chúng
ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta không
thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc
điểm riêng của ta”[6]. Khi vận dụng những kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Người cũng lưu ý phải xuất phát từ thực tiễn, phải
nhận thức sâu sắc những đặc điểm hoàn cảnh của đất nước để lựa chọn kinh nghiệm
nào cho phù hợp: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán
khác, có lịch sử địa lý khác… Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa
xã hội”[7]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng nhuần
nhuyễn nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác –
Lênin để xây dựng lý luận cách mạng cho cách mạng Việt Nam.
4. Tính ưu trội về chỉ đạo, hướng dẫn hành động thực tiễn cách
mạng của lý luận. Lịch sử tư tưởng lý luận đã có nhiều lý luận
của những nhà tư tưởng tách rời khỏi hành động, lý luận chỉ “giải thích thế
giới”, chứ không có tác dụng chỉ đạo thực tiễn hành động. Chẳng hạn lý luận của
một số nhà tư tưởng Tây Âu thời trung cổ nhằm phục vụ cho mục đích của thần học
và tôn giáo; lý luận tư biện theo kiểu trò chơi của những khái niệm (chơi chữ);
lý luận về chủ nghĩa xã hội của một số nhà không tưởng; … Ngay giai cấp tư sản
hô hào, giương cao triết lý về tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng sau khi đánh đổ
giai cấp phong kiến thì nó lại phớt lờ lý luận mà nó nêu lên ban đầu. Sự xuất
hiện của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết học nói chung
và vai trò của lý luận trong định hướng hành động cải tạo thực tiễn. Theo Mác
và Ăng ghen: “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[8].
Kế thừa những tinh túy của
triết học Mác – Lênin và đưa vai trò định hướng hành động của lý luận lên tầm
cao mới. Hồ Chí Minh quan niệm: “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế.
Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được
hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác
nào một cái hòm đựng sách. Xem nhiều sách để mà lòe, để làm ra ta đây, thế
không phải là biết lý luận.., phải ra sức thực hành mới là người biết lý luận”[9]. Theo đó, Người rất đề cao vai trò định
hướng hành động thực tiễn của lý luận, hoạt động thực tiễn mà không có lý luận
dẫn dắt chỉ lối thì hoạt động thực tiễn mù quáng, bởi lẽ khi đó hoạt động thực
tiễn không biết đi theo hướng nào, không biết đi về đâu giống như con tàu giữa
biển khơi mù mịt nhưng lại không có la bàn. Mọi nguyên lý, lý luận của Người
đều hàm chứa chỉ đạo hướng dẫn hành động, chỉ đạo sự vận hành, lý luận như châm
ngôn chỉ đạo hành đông, chẳng hạn: “Nước lấy dân làm gốc”; “Vì lợi ích mời năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”; “Vì độc lập vì
tự do/ Tiến lên chiến sĩ đồng bào”; “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân,
chuyên chính là cái khóa để giữ gìn lấy dân chủ”…Đúng như một số học giả phương
Tây nhận xét về PCLL của Hồ Chí Minh: Người không có tham vọng về lý luận mà thiên
về hành động, đúng hơn ông là nhà chính trị – thực tiễn, nhà triết học – hành
động. Vì vây, Hồ Chí Minh là nhà triết lý trong hành động.
Trong cảnh nước mất nhà tan, đồng bào lầm than,
điêu đứng, xuất phát từ lòng yêu nước thương nòi, tinh thần dân tộc mà Người ra
đi tìm lý luận cách mạng cho dân tộc. Cứu nước là phải hành động, muốn hành
động phải có phương hướng, đường lối. Vì vậy, theo Người: “Không có lý luận
cách mạng thì không có cách mạng vận động”[10]. Đề cao vai trò định hướng hành động,
dẫn dắt hành động cách mạng, nên khi viết những vấn đề lý luận Người chọn lọc
những gì cần thiết, cấp bách nhất với cách mạng Việt Nam, chứ không viết những
vấn đề lý luận một cách giáo điều, sách vở, ồ ạt, như dịch và giới thiệu những
pho sách đồ sộ của các nhà kinh điển. Theo Người, đó chưa cần thiết, chưa cấp
bách và cũng chưa có điều kiện để viết, một khi đã tách khỏi thực tiễn thì đó
chỉ là lý luận suông. Vì vậy, khi Người viết tác phẩm Đường cách mệnh – cuốn
sách vỡ lòng về lý luận cho các chiến sĩ cách mạng lớp đầu, ta thấy lý luận của
Người trình bầy hết sức cụ thể, thiết thực, thiên về hướng dẫn, chỉ đạo hành
động cách mạng hơn là dùng những văn phong uyên bác hàn lâm về lý luận. Chí
điều này đã quy định đặc trưng về văn phong lý luận của Hồ Chí Minh.
5. Văn phong lý luận rất trong
sáng, ngắn gọn, giầu hình ảnh, hiệu quả truyền đạt cao. Lý luận có nhiều cách diễn đạt. Nó có thể
được diễn đạt một cách trừu tượng, hàn lâm, theo cách thể hiện của triết học.
Nhưng nó cũng có thể được diễn đạt một cách giản dị, cô động, hàm súc, dễ nhớ
dễ hiểu, mà vãn thể hiện được cái bản chất, cái cốt lõi của sự vật. Hồ Chí Minh
đã chọn cách đơn giản hóa lý luận, đưa lý luận về gần với thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Không phải Hồ Chí Minh thiếu uyên bác để viết những vấn đề lý luận
mang tính hàn lâm, uyên bác. Thực tế cho thấy Người đã được hấp thụ một nền Hán
học uyên bác, trong những năm sống và hoạt động lý luận ở nước ngoài, giữa một
trung tâm văn hóa, khoa học và cách mạng ở châu Âu. Người đã từng làm việc với
những chính khách hàng đầu của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng
sản quốc tế. Người có thừa uyên bác để viết theo lối hàm lâm. Khi cần Người
cũng từng có lối viết uyên bác, hàn lâm, bằng những bài báo, bức thư, luận văn,
bút chiến đanh thép tố cáo bọn thực dân, khiến bọn chính khách tư sản phải kinh
nể.
Tuy nhiên, từ một nước thuộc địa, nửa phong
kiến, 95% dân số là thất học mù chữ, họ đứng dậy làm cuộc cách mạng lớn nhất
trong lịch sử dân tộc.Với phương châm: “lý luận cốt để áp dụng vào thực
tiễn”. Vì vậy, phải cho lý luận cách mạng thấm sâu vào quần chúng, mới có tác
dụng dẫn dắt, chỉ đạo hành động cách mạng. Nếu “Viết làm gì dài dòng và rỗng
tuếch … là quyết không muốn cho quần chúng xem”[11]. Điều đó quy định cách sử dụng văn phong
lý luận của Người. Theo đó, Người phải chọn cách diễn đạt, ngôn ngữ sao cho
giản dị, ngắn ngon, trong sáng, sử dụng những hình ảnh đắt, gần gũi với đời
sống hàng ngày, phù hợp với lối tư duy bằng hình ảnh của người phương Đông. Qua
đó có tác dụng cải tạo tư tưởng của đối tượng, nhưng không làm mất đi tính lý
luận của nó. Vì vậy, phần lớn những bài viết của Người dưới dạng thư từ, lời
kêu gọi, các bài nói chuyện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội và đạo đức…
cho đồng bào và chiến sỹ, thanh niên, nhi đồng, phụ nữ…Tất cả đều giản dị,
những khái niệm lý luận hàn lâm được thay thế bằng những từ ngữ thông thường.
Khi diễn tả những vấn đề về cách mạng, mặc dù vấn đề phức tạp đến đâu, nhưng
Người luôn chọn lọc những hình ảnh điển hình nhất, khái quát nhất để so sánh
nói lên bản chất của nó hơn là dùng lý luận dài dòng. Hình ảnh “con đỉa hai
vòi” khi nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc; hình ảnh “hai cánh của con chim”
khi nói về mỗi quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng ở chính quốc; hình
ảnh “lý luận như cái tên (hoặc viên đạn), thực hành cũng như cái đích để bắn”
khi nói về vị trí vai trò của lý luận với hoạt động thực tiễn … là những minh
chứng điển hình.
PCLL Hồ Chí Minh là một tài sản vô giá mà Người
để lại cho toàn Đảng và nhân dân ta, luôn có sức hấp dẫn và là bài học đối với
tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người làm công tác tư tưởng, lý luận.
Đối với giảng viên lý luận chính trị (GVLLCT) ở các nhà trường, họ vừa là người
nghiên cứu, phát triển lý luận, vừa là người tuyên truyền lý luận và tham gia
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận của
Đảng. Do vậy, PCLL Hồ Chí Minh là chuẩn mực để GCLLCT học tập và rèn luyện
theo, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GVLLCT, hướng đến nâng cao
chất lượng giáo dục, nghiên cứu, phát triển lý luận; đấu tranh, tuyên truyền
bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng. Thực chất của quá trình này là sự nhận
thức đầy đủ những giá trị cốt lõi, những đặc trưng trong PCLL Hồ Chí Minh và cụ
thể hoá vào nhiệm vụ học tập và rèn luyện của mỗi giảng viên.
Có thể khẳng định rằng, trong những năm qua,
GVLLCT ở các nhà trường có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào
tạo cũng như trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Trong hệ thống giáo dục
quốc dân, GVLLCT đã trang bị một cách cơ bản, hệ thống những tri thức lý
luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng,
trực tiếp tác động và hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng và phương pháp luận khoa học, định hướng các giá trị và phát triển nhân
cách của người học. Trong công tác tư tưởng của Đảng, họ là những chiến sĩ trên
mặt trận tư tưởng, tuyên truyền và đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước góp phần bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa. GVLLCT trong các trường đại học, cao đẳng, nhất là trong các
học viện, các trường đại học lớn là một bộ phận của giới nghiên cứu lý luận
Việt Nam, đã đang tích cực tham gia nghiên cứu, đưa ra những luận cứ khoa học
cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần thúc đẩy
sự nghiệp đổi mới phát triển thắng lợi. Đánh giá về thành tựu của công tác tư
tưởng, lý luận, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về nhiệm vụ chủ yếu của công
tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới và Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5, khóa X về Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu
cầu mới đã khẳng định: Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, vào công cuộc đổi mới
và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước; làm cho nhân dân ta nhận rõ hơn
bản chất và mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi một bước
tư tưởng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, lái đất nước đi chệch con
đường xã hội chủ nghĩa… Thành tựu đó, có một phần đóng góp rất lớn của GVLLCT ở
các nhà trường.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ GVLLCT vẫn bộc
lộ nhiều hạn chế, bất cập. Đó là việc thiếu tâm huyết, trách nhiệm với nghề, không
chịu đào sâu suy nghĩ hiểu đến cùng bản chất của các vấn đề lý luận, chưa
thường xuyên cập nhật những tri thức mới, đường lối quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Quá trình giảng dạy cũng chỉ trang bị đủ kiến
thức cơ bản mà thiếu đi việc đưa các yếu tố thực tiễn vào để phân tích, định
hướng tư tưởng và hướng dẫn hành động cho sinh viên. Đứng trước các vấn đề sai
trái của xã hội, các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch còn
thờ ơ, bàng quang, trong nội bộ chưa mạnh dạn đấu tranh phê bình và tự phê
bình. Cá biệt còn có những giảng viên thiếu mẫu mực về đạo đức, chưa có ý thức
tự giác trong tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống. Về năng lực
chuyên môn, phương pháp sư phạm của nhiều giảng viên còn chưa đáp ứng được yêu
cầu giáo dục, đào tạo hiện nay. Biểu hiện ở việc chưa gắn các vấn đề lý luận
với thực tiễn xã hội; luận giải các vấn đề còn khô khan, cứng nhắc, máy móc,
giáo điều, lý luận suông. Chính vì thế, người học chưa được định hướng rõ về tư
tưởng, trong nhận thức thiếu nhãn quan chính trị và bản lĩnh chính trị, trong
hoạt động thực tiễn chưa có phương pháp luận để định hướng hành động.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện việc học tập
và rèn luyện theo PCLL Hồ Chí Minh, cần tiếp tục nâng cao chất lượng thực hiện
Chỉ thị số 05 CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đối với đội ngũ GVLLCT. Phải
làm cho mọi giảng viên thấy rõ ý nghĩa tầm quan trọng và nội dung, yêu cầu của
việc học tập và làm theo PCLL Hồ Chi Minh. Từ đó, cụ thể hóa và xác định những
yêu cầu cơ bản về PCLL cho phù hợp đặc điểm, môi trường, yêu cầu nhiệu vụ công
tác của từng giảng viên. Cần phải xóa bỏ tư tưởng thần thánh hóa PCLL Hồ Chí
Minh, từ đó cho rằng cán bộ không thể học tập và rèn luyện theo phong cách ấy
được. Đồng thời, cũng phải khắc phục nhận thức chỉ thấy PCLL Hồ Chí Minh là
phong cách của một “nhà chính trị chuyên nghiệp” mà không thấy phong cách của
một nhà khoa học chân chính, luôn thống nhất giữa tính đảng, tính chính trị với
tính khoa học trong mỗi lời nói, việc làm và quan hệ công tác. Do đó, phải “Làm
cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[12].
PCLL của GCLLCT không hình
thành một cách tự nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện nghiêm túc. Ngày nay
đối tượng người học đang có sự phát triển mới, cả về trình độ nhận thức, kinh
nghiệm thực tiễn, các quan hệ ngày càng mở rộng rộng, các thành tựu về khoa học
công nghệ nhất là về tin học, không gian mạng đang được ứng dụng vào đời sống,
làm cho người học được tiếp cận với nhiều thông tin mới, đa chiều. Các thế lực
thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta
bằng cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bằng nhiều hình thức phong
phú, đa dạng nhằm gây chia rẽ đoàn kết nội bộ. Trong nước, tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra phức tạp. Do vậy, mỗi GCLLCT
phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, nắm vững tri thức về khoa học, thu thập và xử lý thông tin một cách
chính xác, kịp thời, có nhãn quan chính trị sắc bén, nhanh nhạy, kịp thời định
hướng tư tưởng, hình thành thế giới quan chính trị đúng đắn cho người học. Đồng
thời, để hình thành PCLL khoa học đòi hỏi GVLLCT phải không ngừng tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, với chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Người giảng viên phải hiểu sâu sắc bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, có thế giới quan duy vật biện
chứng và nhân sinh quan cộng sản và bản lĩnh trị vững vàng, kiên quyết
đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, xuyên tạc, chống đối của các thế
lực thù địch.
Để mỗi giảng viên có căn cứ học tập và rèn
luyện, cần xây dựng chuẩn mực về PCLL của GVLLCC theo PCLL Hồ Chí Minh. Cấp ủy,
người đứng đầu các nhà trường cần lượng hóa và cụ thể hóa các đặc trưng ấy
thành các tiêu chí cho mỗi cán bộ, giảng viên ở cơ quan, đơn vị mình học tập và
rèn luyện theo. Theo tinh thần của chỉ thị 05 CT/TW là: “Tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ
quan, đơn vị với phương châm “sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ
thực hiện và đánh giá việc thực hiện”[13]. Mỗi nhà trường cần xây dựng những điển
hình mẫu mực từ đó nhân rộng điển hình trong đơn vị. Thông qua các hoạt động
thực tiễn như hội thi hội thao, văn hóa văn nghệ, tuyên truyền cổ động … để đưa
các điển hình đó vào thực tế của đơn vị mình. Đồng thời qua các giai đoạn cần
có sự đánh giá rút kinh nghiệm, điều chỉnh chuẩn mực mô hình đó cho phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ.
Điều rất quan trọng của
việc học tập và rèn luyện theo những đặc trưng trong PCLL Hồ Chí Minh đạt hiệu
quả, trong công tác cán bộ cần phải xem xét, đánh giá PCLL của giảng viên cách
khách quan, khoa học, góp phần làm cơ sở để cất nhắc đề bạt, luân chuyển, bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ. Do vậy, phải: “Lấy kết quả học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá,
bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm”[14]. Hằng năm, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần
thống nhất đánh giá thực trạng phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn của
giảng viên, xây dựng kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng phương pháp sư phạm, phong
cách công tác cho giảng viên phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ, điều kiện, khả năng
và chức trách. Thực hiện tốt chế độ kiểm tra báo cáo, sơ kết tổng kết kinh
nghiệm, sớm phát hiện yếu kém, lệch lạc về phẩm chất chính trị và năng lực
chuyên môn của giảng viên để uốn nắn, khắc phục kịp thời.
Nhận xét
Đăng nhận xét