Không thể đánh đồng quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số
Ngày 14-12-1960, Đại hội đồng LHQ ban hành Nghị quyết số 1514
(XV) thông qua Tuyên bố về “Trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc
địa”; tại Điều 2, nghị quyết chỉ rõ: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết,
trong đó có quyền thiết lập chế độ chính trị và thực hiện sự phát
triển KT-XH và văn hóa của mình”. Điều này, tiếp tục được khẳng định
tại Điều 1, Công ước Quốc tế về các quyền KT-XH và văn hóa năm 1966:
“Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do
quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển KT-XH và
văn hóa”. Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc của luật quốc tế của LHQ
cũng nhấn mạnh: “Việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia
nhập vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó, cũng như việc
thiết lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình
thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết” và “mỗi quốc gia đều có nghĩa vụ tôn
trọng quyền này, phù hợp với Hiến chương LHQ”.
Nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau: Được thành
lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang
(hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện; tự lựa chọn cho mình chế độ chính
trị, KT-XH; tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên
ngoài; quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu
tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài, kể cả
giúp đỡ về quân sự; tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống,
lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý. Tất cả các quyền nêu trên của
mỗi dân tộc đều được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng. Như vậy,
“quyền dân tộc tự quyết” được hiểu là việc một quốc gia-dân tộc hoàn toàn tự do
trong tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính
trị, đường lối phát triển đất nước.
Hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết và quyền
của dân tộc thiểu số
Khái niệm “quyền dân tộc thiểu số” được chính thức ghi nhận
trong hai Công ước quốc tế là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của
LHQ (UDHR) năm 1948: “Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự
do không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới
tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội” (Điều 2) và Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 ghi: “Tại những nước
có nhiều nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những
cá nhân thuộc các dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các thiểu số đó, cùng với
những thành viên khác của cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền được thụ
hưởng nền văn hóa riêng, quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc
quyền được sử dụng tiếng nói riêng của họ” (Điều 3). Đây là hai văn kiện pháp
lý quốc tế nền tảng, ghi nhận các quyền pháp lý cơ bản của con người về dân sự,
chính trị mà quyền dân tộc thiểu số được coi là quyền cơ bản trong nhóm các
quyền dân sự, chính trị đó. Điều đó có nghĩa là người dân tộc thiểu số (DTTS)
có đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, KT-XH, văn hóa như những người
thuộc dân tộc đa số trong xã hội, hoàn toàn bình đẳng và không có sự phân biệt
đối xử.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền của DTTS tuy có mối quan hệ
nhưng nội hàm của chúng hoàn toàn khác nhau. Đối với quyền của DTTS, chủ thể
hưởng thụ quyền là các DTTS trong một quốc gia. Quốc gia đó có trách nhiệm bảo
đảm cho các DTTS trong quốc gia mình được hưởng thụ quyền dựa trên điều
kiện đặc thù của mình. Còn chủ thể quyền dân tộc tự quyết là quốc gia-dân tộc
chứ không phải là một DTTS trong quốc gia-dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không
cho phép một DTTS ở một quốc gia được ly khai, được thành lập một quốc gia độc
lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó.
Trong mỗi quốc gia có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, tất cả các dân
tộc này cùng hợp thành một dân tộc chung nhất, đồng nghĩa với nhân dân và mang
tên gọi của đất nước mình.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng
sinh sống, đoàn kết, hòa thuận trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng và
giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán mục
tiêu bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền dân tộc tự quyết của
nhân dân Việt Nam theo luật pháp quốc tế. Điều 5, Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ
dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống
và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện
và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”;
đồng thời nhấn mạnh: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi
hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống
lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11). Nội dung
này đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật khác, như: Luật Quốc tịch năm
2008; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015, Bộ luật
Hình sự (sửa đổi) năm 2015... Ở Việt Nam, chỉ có khái niệm quyền con người,
quyền công dân; đó là quyền của tất cả nhân dân Việt Nam, không phân biệt họ là
DTTS hay đa số. Quyền con người thuộc mọi dân tộc thống nhất giữa quyền cá
nhân và quyền tập thể cộng đồng dân tộc được đặt chung trong quyền của
quốc gia-dân tộc.
Làm thất bại những âm mưu lợi dụng, chống phá
Trong những năm qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng
quyền dân tộc tự quyết để đánh tráo và đồng nhất khái niệm quyền dân tộc tự
quyết là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để kích động đồng
bào các DTTS ở Việt Nam đứng lên đòi “quyền dân tộc tự quyết”. Chúng ra sức
truyền bá, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; chia rẽ khối đại đoàn kết các
dân tộc ở Việt Nam; kích động các dân tộc chống lại chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước; gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là vùng đồng
bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm điều kiện
trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với
việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong
nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chúng còn
tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên
ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước Việt Nam từ bên
trong. Lợi dụng các vấn đề về lịch sử, đất đai, những sơ hở, thiếu sót trong
thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; lợi dụng cuộc sống khó khăn của một bộ
phận đồng bào DTTS để vu cáo Nhà nước Việt Nam "phân biệt đối xử, đàn áp
người DTTS", ép người DTTS phải “bỏ đạo, bỏ văn hoá dân tộc” để hoà nhập
với “cuộc sống văn minh” của người Việt… để kích động, lôi kéo người DTTS biểu
tình, bạo loạn đòi “quyền dân tộc tự quyết, tự quản”.
Chúng còn tìm cách mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân
tộc vượt biên trái phép, gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ cho bên
ngoài can thiệp. Chúng vận động các tổ chức quốc tế vào các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ nắm tình hình rồi xuyên tạc thực tế, vu cáo Nhà nước Việt
Nam đàn áp người DTTS, vi phạm dân chủ, nhân quyền, qua đó, hòng gây sức ép yêu
cầu Nhà nước Việt Nam phải trao quyền “dân tộc tự quyết” cho người DTTS. Chúng
kích động đồng bào các DTTS trong nước đòi quyền dân tộc tự quyết, thành lập “Nhà
nước Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chămpa” ở Tây Nam Bộ, “Vương
quốc Mông” ở Tây Bắc... qua đó nhằm hình thành các tổ chức đối lập với Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong, như: "Hội
người Mông thế giới", "Hội người Thượng Đề-ga", "Hội những
người miền núi", "Nhà nước Đề-ga độc lập"… tổ chức biểu tình ủng
hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực hơn.
Để phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động
lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để chống phá Việt Nam, cần tăng cường tuyên
truyền để xã hội hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết theo luật pháp quốc tế và
pháp luật Việt Nam. Không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; mở rộng, đa dạng
hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tôn giáo; chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân
tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Đề cao
tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với
lợi ích chung của đất nước. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án
phát triển KT-XH, xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; tiếp tục bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc. Làm tốt công tác
nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động
lợi dụng dân tộc, quyền dân tộc tự quyết để phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân, chống phá cách mạng. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu
thuẫn, bức xúc trong đồng bào DTTS trên cơ sở pháp luật...
Nhận xét
Đăng nhận xét