TIẾP TỤC HOÀN THIỆN ĐỊNH HƯỚNG BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trong 30 năm qua, nhất là
từ năm 2011 đến nay, thực hiện định hướng bảo vệ Tổ quốc theo Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, việc kế thừa, phát triển và tiếp tục hoàn thiện định hướng
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề hết sức quan trọng. Từ số
này, Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu bài viết: “Tiếp tục hoàn
thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” của GS, TS. Vũ Văn
Hiền, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương.
I. Định
hướng bảo vệ Tổ quốc - sự phát triển về nhận thức và thành tựu
1. Định hướng bảo vệ Tổ
quốc
Về định hướng bảo vệ Tổ
quốc, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng xác định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc
phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta”1. Trên cơ sở xác định rõ định hướng và mục tiêu, nhiệm vụ
của quốc phòng, an ninh, Cương lĩnh năm 2011 còn cụ thể hóa với những nội dung
hết sức rõ ràng. Đó là: (1). Xác định rõ trách nhiệm và lực lượng thực hiện
định hướng bảo vệ Tổ quốc: “là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà
nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng
nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận
an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến
tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp
tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”2. (2). Chỉ rõ những yếu tố và
cách thức triển khai để tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước:
“Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền
tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với
tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”3.
(3). Về xây dựng lực lượng, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, Cương lĩnh chỉ
rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước
và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân dân với quân số thường
trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân
tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh toàn diện,…”4.
Đồng thời, Đảng, Nhà nước chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính
trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; bảo đảm đời
sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng,
an ninh, bảo đảm cho lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện
đại. (4). Cương lĩnh xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước đối với lực lượng vũ trang: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh”5.
2. Quá trình phát triển
nhận thức của Đảng về định hướng bảo vệ Tổ quốc
Định hướng bảo vệ Tổ quốc
hiện nay cho thấy, nhận thức của Đảng có sự đổi mới và ngày càng hoàn
thiện. Trong Cương lĩnh năm 1991, định hướng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được
Đảng ta xác định một cách toàn diện là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm
mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta”6. Đến Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và sau
đó là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), định hướng bảo vệ Tổ quốc được nhận
thức đầy đủ và toàn diện hơn. Đảng ta xác định bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà
còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ nền văn hóa,
giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội XI, Đảng đưa vấn đề “giữ
vững chủ quyền biển, đảo” và “ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống” vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đồng thời nhấn mạnh “an ninh chủ động”. Đại
hội XII của Đảng đã nâng tầm nhận thức, coi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn là:
“Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy
lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an
ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an
ninh mạng”7.
Nếu như trong Cương lĩnh,
chủ trương “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế” thì Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng nhấn mạnh: “kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại;
tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”. Xây dựng “thế trận lòng
dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh
nhân dân, “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ
xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất
là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”
Nhận thức của Đảng về sức
mạnh và lực lượng để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng rõ hơn. Đó là sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng,
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, trong đó lực lượng vũ
trang là nòng cốt. Để tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang thực hiện tốt
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công
an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện
đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng
cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Đảng, Nhà nước và nhân dân”9.
Quá trình đổi mới, trước
những diễn biến phức tạp của tình hình, nhất là tranh chấp chủ quyền biển, đảo,
biên giới và các thủ đoạn chống phá mới của thế lực thù địch, nhận thức
của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển, ngày càng sâu sắc, toàn
diện, đồng bộ hơn, nhất là về nội dung, phương thức thực hiện; xác định rõ
nhiệm vụ cụ thể của toàn Đảng, toàn dân, tất cả các ngành, lĩnh vực, lực lượng
vũ trang và các địa phương, đơn vị, coi đó là những hoạt động thường xuyên.
Đảng ta chỉ rõ, phải xây dựng lực lượng lớn mạnh, sẵn sàng đấu tranh với các
thế lực thù địch trong mọi tình huống: xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo,
biên giới, gây rối, biểu tình, bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, lật đổ,
ly khai; đấu tranh thường xuyên chống các tư tưởng, hành động trái với đường
lối, quan điểm của Đảng; phòng, chống “diễn biến hòa bình” và những luận điệu
chống phá của các thế lực thù địch.
Đáng chú ý là, nhận
thức về đối tác, đối tượng là tư duy mới có tính đột phá. Nghị quyết Trung
ương 8 (khóa XI) chỉ rõ: để phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có cách
nhìn mới và thống nhất về đối tác, đối tượng. Những ai tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi
với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống
phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối
tượng. Đây là sự phát triển, bước đột phá tư duy của Đảng, với cách nhìn biện
chứng, chuyển từ tư duy bạn, thù sang tư duy đối tác, đối tượng, trên cơ sở lợi
ích quốc gia, dân tộc, thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác;
xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế rộng rãi, đồng thời
đấu tranh với đối tượng và mặt đối tượng của đối tác.
Cùng với đó, định
hướng bảo vệ Tổ quốc tiếp tục cụ thể hóa vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, bảo đảm giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống
nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Đồng thời, xác
định các chủ trương, giải pháp để tạo sức mạnh tổng hợp cho lực lượng vũ trang
thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
3. Thành tựu
Theo định hướng trong Cương
lĩnh của Đảng, cốt lõi của việc bảo vệ Tổ quốc chính là việc gắn chặt chẽ giữa
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Thực
chất của bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay là bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, là bảo vệ chế độ xã hội đang trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện, đã đạt được những cơ sở, nền tảng tương đối vững chắc, nhưng vẫn
còn nhiều mặt yếu kém không dễ giải quyết và khắc phục một sớm, một chiều. Thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong những năm qua, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu nổi bật:
Một là, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện của Nhà nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch, giữ vững hòa bình, ổn định và phát triển. Đồng thời, tạo lập được môi
trường quốc tế thuận lợi, quan hệ đối ngoại được tăng cường, hội nhập quốc tế
ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; thế và lực của Việt Nam ngày càng
được nâng lên.
Hai là, củng cố, đổi mới, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Công tác tư tưởng, lý
luận được chú trọng, tăng cường tổng kết, góp phần tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc do thực tiễn đặt ra; kiên quyết đấu tranh chống quan điểm sai trái,
thù địch; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ Tổ quốc, nhân dân, bảo vệ Nhà nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đã vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; kiềm chế được lạm
phát, quy mô nền kinh tế tăng lên. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội được quan
tâm, đời sống nhân dân cơ bản được ổn định.
Bốn là, sức mạnh tổng hợp của đất
nước, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc. Mối quan hệ
đối ngoại được mở rộng và đi vào chiều sâu, góp phần tạo thế và lực mới của đất
nước để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, chất lượng tổng hợp, sức
mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được nâng cao, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Quân đội và Công an được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; trong đó, một số quân chủng, binh chủng của Quân đội
và một số lực lượng của Công an được xây dựng tinh nhuệ và tiến thẳng lên hiện
đại. Đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được
quan tâm và cải thiện đáng kể. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục
giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của đội quân cách mạng, đoàn kết nhất
trí cao trong nội bộ, gắn bó máu thịt với nhân dân, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế cao cả, khắc phục khó khăn, hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao
Nhận xét
Đăng nhận xét