Xin đừng ngộ nhận
Từ Đại
hội lần thứ XI của Đảng tới nay, mọi hoạt động kinh tế, xã hội nước nhà bừng bừng
khí thế đổi mới với bao thành quả to lớn đến không ngờ. Mừng trước thành tựu hiện
tại, lại thương về quá khứ một thời – cái thời đạn bom, cái thời khổ đau thiếu
thốn trăm bề… đó là cái nhìn nhân nghĩa của toàn dân ta. Song, không phải không
có những cái nhìn, những sự so sánh ngộ nhận để than phiền chê bai, oán trách!
Trong khuôn khổ bài viết
ngắn này, chỉ xin đi vào lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, mà cũng chỉ dám đề cập
tới một loại hình nghệ thuật – đó là âm nhạc.
Vài chục năm trở lại đây,
âm nhạc nước nhà quá ư là phong phú, đa dạng, hội đủ các châu lục, vùng miền,
quốc gia, dân tộc – nhạc Tây, nhạc Tàu, nhạc Nga, nhạc Nhật, nhạc Hàn… có hết.
Trong nước thì hội đủ các dòng: Cổ nhạc, tân nhạc, dân ca các vùng miền, dân
tộc. Riêng tân nhạc thì “đồ sộ” hơn: nhạc đỏ (nhạc cách mạng), nhạc Sài Gòn cũ
(bolero), nhạc tiền chiến… đáp ứng nhu cầu thưởng thức âm nhạc của mọi lứa
tuổi, mọi giai tầng xã hội. Có thể nói, đó là thời kỳ “bội thực ca hát”. Hát ở
sân khấu lớn, sân khấu bé, hội trường to, hội trường nhỏ; hát ở tiệc cưới, tiệc
sinh nhật, các buổi hội họp, các quán karaoke, các phòng trà, các tụ điểm ca
nhạc, kể cả hát rong trên đường phố các quán ăn để bán kẹo cao su, bút bi, tăm
tre và vật phẩm khác.
|
Chính vì sự tự do thoải mái đó mà một số người hoài niệm quá khứ với cái nhìn và sự đánh giá vô lối rằng “một thời ấu trĩ, một thời giáo điều, khô cứng… bao nhạc phẩm tiền chiến, nhạc bolero hay thế sao lại cấm đoán? Sao lại không cho phổ biến? Người ta phê phán đó là thời kỳ thiếu tự do dân chủ đâu có oan! Thời đó mà cứ “xả láng” như bây giờ thì mắc mớ gì người ta kêu ca, phiền trách”.
Gốc gác vấn đề cần lạm bàn
là ở đây. Trước hết, cần xác định vị trí, tầm quan trọng của công tác văn hóa –
văn nghệ trong cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc ta. Cụ thể là 2 cuộc kháng
chiến chống thực dân, đế quốc trong thế kỷ XX; Cố nhiên phải tính cả giai đoạn
chống chiến tranh biên giới, cứu Campuchia thoát khỏi ách diệt chủng của tập
đoàn Pol Pot – Ieng Sari. Có thể gom lại, đó là thời kỳ chiến tranh, với
mục tiêu tối thượng là toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta dốc lòng, dốc sức để
chiến thắng kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước.
Tất cả mọi sáng tác trên
lĩnh vực văn học – nghệ thuật đều phục vụ cho mục tiêu đó. Bởi thế, trên lĩnh
vực âm nhạc đã xuất hiện hàng ngàn ca khúc phản ánh, ngợi ca khích lệ tinh thần
chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lao động sản xuất… của quân và dân ta, trở thành
vũ khí cực kỳ quan trọng trên mặt trận tư tưởng góp phần tạo nên chiến thắng diệu
kỳ và có biết bao tác phẩm sẽ còn sống mãi với thời gian. Cũng bởi vậy mà một
số nhạc phẩm không phù hợp với giai đoạn cách mạng đó thì không nên phổ biến.
Sở dĩ tác giả bài viết này
dùng cặp từ “không nên”, vì thực ra quá trình trên 40 năm tham gia cách mạng,
trong đó có 10 năm chiến đấu ở chiến trường miền Nam, chưa bao giờ nghe phổ
biến lệnh cấm những tác phẩm âm nhạc không phù hợp thời chiến, mà chỉ nghe lệnh
“cấm nghe đài phát thanh của địch; cấm sử dụng ca khúc có nội dung chống cộng”.
Rất có thể do nhạy cảm chính trị mà lãnh đạo các cấp, kể cả những người không
phải là lãnh đạo thường nhắc khéo nhau “làm bài khác đi, bài đó buồn lắm, nhớ
nhà, nhớ người yêu lắm…”.
Xin nêu một ví dụ: Tác giả
bài viết này hát không hay nhưng lại hay hát, thuộc cỡ ngót nghét trăm bài
(không cần màn hình), trong đó có tới cả chục bài thuộc dòng “tiền chiến”
(những nhạc phẩm sáng tác trước tháng 8 năm 1945), mà lại thuộc từ xa xưa khi
mới có hơn chục tuổi đầu. Số là gia đình thời đó sống trong vùng địch tạm
chiếm, một làng quê ven sông Hồng nơi “xứ Đoài mây trắng”. Bởi thế, không biết
một bài ca cách mạng nào. Mãi tới ngày hòa bình, có mấy anh bộ đội về làng dạy
cho đám thiếu niên chúng tôi, mới biết được một số bài: “Giải phóng Điện Biên”,
“Hành quân xa”, “Hò kéo pháo”, mới biết điệu múa sạp theo bản nhạc “sòn sòn sòn
đô sòn/ sòn sòn sòn đô rê…”.
|
Nhưng những bài hát cũ (đó
là nhận thức của chúng tôi thời đó về những nhạc phẩm tiền chiến) thì lại thuộc
hơi bị nhiều, tỷ như: “Buồn tàn thu”, “Thiên thai”, “Suối mơ” (của Văn Cao),
“Con thuyền không bến”, “Giọt mưa thu” (Đặng Thế Phong), “Đêm đông” (Nguyễn Văn
Thương), “Dư âm” (Nguyễn Văn Tý), “Trăng mờ bên suối” (Lê Mộng Nguyên), “Lá đổ
muôn chiều” (Tuấn Khanh), rồi “Biệt ly”, “Bóng chiều xưa” và một bài nữa cũng
có tên là “Lá đổ muôn chiều” nhưng không nhớ tên tác giả. Cái sự biết và thuộc
lời bài ca cũng bởi duyên may – xóm ven sông làng tôi có khoảng trên 100 nóc
gia, nhưng duy nhất chỉ có một người chữ đẹp, đàn giỏi, hát hay, đó là thầy
giáo Lê Đức Sương. Ông hơn tôi dễ đến gần chục tuổi, đã có vợ con, vậy mà trở
thành bạn vong niên của nhau. Những bài hát trên là do ông “truyền” lại, nghe
và thuộc rồi viết vào sổ tay (một đặc điểm phổ biến của lứa thanh thiếu niên
thời đó, để chép bài hát, chép thơ và ghi lưu bút bạn bè, kể cả một số bài thơ
tình của Nguyễn Bính, Huy Cận, Anh Thơ...), chỗ nào sai, nhờ ông chỉnh lại.
Ngày tôi đi bộ đội. Thời đó
nghèo, chẳng cỗ bàn gì đâu. Mẹ tôi mua một ít kẹo lạc, kẹo vừng, pha một ấm ủ
“chè bồm” (lá chè khô). Thầy giáo Sương tới nhà tôi sớm nhất và về sau cùng.
Ông nắm chặt tay tôi – “Chúc em lên đường mạnh khỏe, mong sớm lập công đầu”. Ra
tới giữa sân rồi, ông còn quay trở lại, vỗ vỗ nhẹ vai tôi – “Anh còn quên một
việc, cuốn sổ chép bài hát của em, theo anh, chú không nên đem theo, bởi người
lính không được yếu lòng, mềm lòng. Nội dung không có gì phiền toái, nhưng nó
không phù hợp với cuộc sống người lính”. Cố nhiên tôi nghe lời khuyên của ông.
Tôi mang theo lời ông bước
vào cuộc đời binh ngũ, rồi đi chiến trường biền biệt 10 năm với bom rơi, pháo
nổ, giữa máu lửa của cuộc chiến, với bừng bừng khí thế tiến công. Nói vậy, ở
chiến trường, vẫn có những ngày thanh bình, yên tĩnh – đó là những ngày hưu
chiến, những ngày lễ, tết, ngoài chuẩn bị vật chất, vẫn phải có “món ăn tinh
thần”, vẫn tưng bừng văn nghệ. Mang tiếng từ Bắc vô, thành ra đã thủ sẵn một số
bài làm vốn liếng và nó được bổ sung bằng việc đêm khuya theo dõi chương trình
văn nghệ của Đài Phát thanh Giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam, cố nhớ và chép
lại rồi hướng dẫn lại cho đồng đội. Như nhạc phẩm “Cùng anh tiến quân trên
đường dài”, “Chào em cô gái Lam Hồng”, “Hà Tây quê lụa”, “Đường cày đảm đang”,
“Trước ngày hội bắn”; rồi “Bài ca may áo”, “Qua sông”, “Tiếng hát trên đường
quê hương”, “Xuân chiến khu”, “Cô gái mở đường”… Kể cả những bài trong kháng
chiến chống Pháp ở chiến trường Nam Bộ - “Tiểu đoàn 307”, “Lá xanh”, “Nhạc
rừng”… Tất cả đã trở thành tiết mục biểu diễn trong liên hoan của đơn vị, kể cả
trong dịp đón tết, mừng xuân do địa phương tổ chức, có bà con xóm ấp tham dự.
Chẳng lẽ những sự kiện như thế lại đem ca khúc tiền chiến ra biểu diễn.
Chừng đó thôi ngẫm cũng đủ
lạm bàn với những ai còn lăn tăn, ngộ nhận về một thời gọi là “cấm đoán”!
Về những nhạc phẩm sáng tác
trong vùng địch tạm chiến được phổ biến trên hệ thống truyền thông, xuất bản
của chế độ Sài Gòn trước ngày 30-4-1975. Cố nhiên thời đó thuộc diện cấm. Thực
ra cái sự cấm đoán của đối phương còn bài bản, triệt để hơn ta nhiều.
Xin nêu một ví dụ: Ngoài
việc loan báo lệnh trên hệ thống truyền thông, trong quân đội, từ cấp đại đội
trở lên họ đều bố trí sĩ quan tuyên úy (người chăm lo phần hồn của binh lính)
anh nào không chấp hành sẽ bị xử lý ngay. Đối với dân chúng, tất cả các khu gom
dân, ấp chiến lược, họ xây dựng nhà cửa theo mô hình giám sát lẫn nhau, hình
thái “ngũ liên gia bảo” (5 gia đình theo dõi, bảo vệ nhau). Mỗi nhà đều được
lắp một radio chỉ duy nhất một sóng FM, chủ yếu là chương trình ca nhạc có xem
tin tức thời sự với nội dung “sặc mùi chống cộng” mà hồn cốt của nó được nhào
nặn từ cơ quan chiến tranh tâm lý cực kỳ nguy hiểm nhằm tác động tư tưởng người
nghe. Nhà nào mà tự động tắt đài, có dấu hiệu nghe đài “Việt cộng” hoặc có
khách lạ lui tới thì sớm muộn cũng bị “Hội đồng tề sờ gáy”.
Thực lòng mà nói ngoài
những nhạc phẩm chống cộng điên cuồng, thô thiển và những sáng tác ca ngợi
người lính cộng hòa thái quá thì cũng có không ít nhạc phẩm vô thưởng vô phạt,
tiết tấu, ca từ, giai điệu na ná dòng tiền chiến dễ tạo ngộ nhận cho người
nghe. Thú thực tác giả bài viết này, để sẵn sàng phục vụ cho yêu cầu công tác
nghiệp vụ, đã bí mật sưu tầm một số nhạc phẩm của nhạc sĩ Sài Gòn thuộc loại
“vô thưởng vô phạt” ấy. Dẫu công tác trong căn cứ bám trụ của đơn vị ở vùng
giáp ranh, nhưng phải sẵn sàng tư thế khi cần sẽ vô hoạt động hợp pháp trong
thành, lại bình phong thủ vai nhà giáo, nhà văn không hiểu gì về văn hóa – văn
nghệ Sài Gòn thì dễ gì tiếp cận. Thế là những ngày căng võng ngủ dưới hầm tại
rừng Chiến khu “D”, mật khu “C”, kể cả ở rừng dừa sông nước Bến Tre, những nhạc
phẩm tiền chiến, những bản bolero của Sài Gòn như “Nỗi buồn hoa phượng”, “Hoa
sứ nhà nàng”… lại trôi về trong trí nhớ. Nhẩm mãi rồi thuộc, thuộc cho tới bây
giờ để được anh em, bạn bè ở quán cà phê “hát cho nhau nghe” tại ngõ 113 phố
Hoàng Cầu của cặp chồng Bình Oanh xếp vào loại “người thuộc nhiều bài hát nhất,
riêng dòng nhạc tiền chiến và bolero xếp hàng đầu của quán”.
Đó là chuyện cũ. Còn bây
giờ, trong bối cảnh nước nhà độc lập, thống nhất, non sông quy về một mối thì
tất cả tác phẩm âm nhạc dù sáng tác trong thời kỳ nào, dòng nhạc nào cũng là
cái của người Việt làm ra, kể cả những sáng tác của người Việt hải ngoại mà cơ
quan chức năng (hẳn nhiên là ngành văn hóa) cần nghiên cứu, khai thác.
Rõ ràng từ đổi mới tới nay,
cơ quan chức năng người ta đã làm tốt việc này, dẫu rằng đôi khi có những “trục
trặc kỹ thuật” mà ngộ nhận dẫn tới phủ nhận nó. Quả là điều vô lý!
Có thể nói phong trào ca
hát nước nhà đang ở thời kỳ nở rộ, người yêu âm nhạc, sành âm nhạc đều nhận ra
dòng nhạc nào cũng có tuyệt tác sống mãi với thời gian.
Đại đội 24,
Tiểu đoàn 8, Trường Sỹ quan Lục quân 1
Nhận xét
Đăng nhận xét