Tự phê bình thành khẩn, tự giác nhận khuyết điểm
Có thể nói, biểu hiện không
thành khẩn nhận khuyết điểm và không tự giác nhận kỷ luật đã tồn tại từ lâu
trong quá trình xây dựng, phát triển và lãnh đạo của Đảng ta. Tuy nhiên, những
năm gần đây biểu hiện này ngày càng rõ nét và hậu quả mà nó gây ra không chỉ
với mỗi cá nhân mà còn ảnh hưởng đến sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.
Thiếu thành khẩn nhận khuyết điểm, không
tự giác nhận kỷ luật, thực chất là sự yếu kém trong tự phê bình. Tự phê bình có
thể hiểu khái quát là bản thân mỗi người, mỗi tổ chức đảng tự nhìn lại quá
trình học tập, công tác, sinh hoạt của mình xem cái gì mạnh-cái gì yếu,
cái gì đúng-cái gì sai, cái gì làm được và cái gì chưa làm được; cái gì là tích
cực-cái gì là tiêu cực, mức độ đúng-sai, tốt-xấu cụ thể đến đâu, để từ đó tìm
ra biện pháp phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại, khuyết điểm.
Như vậy có thể thấy đích đến của tự phê bình rất nhân văn, nhưng
nếu mỗi người, mỗi tổ chức thiếu thành khẩn, không tự giác thì công
việc này sẽ trở thành hình thức. Để tự phê bình được tốt thì trước tiên các tổ
chức đảng và từng đảng viên phải thành khẩn nhận khuyết điểm, tự giác và
dũng cảm nhận kỷ luật. Thế nhưng trên thực tế thời gian qua bên cạnh những mặt
làm được, việc tự phê bình trong Đảng còn nhiều điều đáng bàn. Đề cập đến vấn
đề này, Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIIvề tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ, đã kiểm điểm và chỉ rõ: Sau nhiều
năm thực hiện các nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, bên
cạnh những kết quả đạt được, tình trạng suy thoái trong Đảng chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có dấu hiệu cho thấy còn phức tạp hơn. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó được Đảng ta nhấn mạnh là thực
hiện không nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở nhiều tổ chức, cá
nhân, đặc biệt là tình trạng “có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không
tự giác nhận kỷ luật...”. Đảng ta coi đây là một trong những biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị.
Trong cuộc sống chúng ta thường nói với nhau “nhân vô thập
toàn”, “ngọc còn có vết”. Điều này cũng có nghĩa con người ta không ai là hoàn
hảo 100%. Trong mỗi người luôn tồn tại những mặt đối lập. Người tốt không phải
hoàn toàn không có những mặt xấu, mặt hạn chế và ngược lại người xấu cũng không
phải hoàn toàn xấu, không phải không có điểm gì tốt. Người tốt đừng bao giờ chủ
quan tự cho mình là hoàn hảo, là tốt đẹp mà không phấn đấu. Chủ quan, thỏa mãn,
không rèn luyện thường xuyên là cơ hội để những cái xấu vốn có trong mỗi con
người trỗi dậy, khiến ta sa ngã, vi phạm kỷ luật, thậm chí rơi vào tội lỗi. Như
vậy vấn đề là ở chỗ mỗi người chúng ta phải luôn biết chế ngự các mặt xấu, mặt
tiêu cực và phát huy những mặt tốt, mặt tích cực để trở thành những người có
ích cho tập thể, cho xã hội. Tự kiểm điểm, tự phê bình một cách thành khẩn,
nghiêm túc là việc làm rất cần thiết, rất quan trọng để thực hiện điều đó.
Nói là vậy nhưng việc thực hiện công việc này không hề đơn giản.
Biết là cần thiết, là quan trọng nhưng không phải ai cũng muốn làm và làm cho
đến nơi đến chốn. Tâm lý của không ít người hiện nay là "đẹp đẽ phô ra,
xấu xa đậy lại", không "vạch áo cho người xem lưng"... Khi tự
kiểm điểm, tự phê bình, cán bộ, đảng viên ta chủ yếu nói về kết quả, thành
tích, phần khuyết điểm chỉ là thứ yếu, chung chung với một điệp khúc đã trở
thành quen như: "Tính tình đôi khi còn nóng nảy", "tác phong làm
việc đôi khi chưa khoa học", "đấu tranh tự phê bình và phê bình còn
hạn chế", "chưa chủ động trong công việc"... Và trên thực tế
chưa ai thành khẩn, tự giác, dũng cảm kiểm điểm trước tập thể rằng "tôi đã
tham nhũng", "tôi đã vi phạm nguyên tắc", "tôi làm trái quy
định của Nhà nước"... Chỉ đến khi tổ chức kiểm tra, thanh tra, cơ quan bảo
vệ pháp luật vào cuộc, mọi chuyện vỡ lở thì lúc ấy sự việc đã đi quá xa và trở
thành chuyện đã rồi. Không ít người mặc dù lỗi lầm đã được chỉ ra nhưng vẫn
không trung thực, không thành khẩn báo cáo trước tập thể, mà cố tình ngụy biện
che đậy, lấp liếm, khi tổ chức phải áp dụng hình thức xử lý thì không dũng cảm
nhận kỷ luật. Thậm chí có người khi ra hầu tòa, mặc dù sai phạm đã rõ ràng, với
đầy đủ chứng cớ nhưng vẫn còn quanh co đổi lỗi cho người khác, cho tập thể.
Dũng cảm nhận lỗi, nhận kỷ luật là hành động thể hiện sự chịu
trách nhiệm về những việc mà mình đã làm. Khi trung thực nhận lỗi, dũng cảm
nhận kỷ luật chúng ta sẽ thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản hơn bởi mọi
chuyện đã rõ ràng, sáng tỏ. Những người thành khẩn nhận lỗi, dũng cảm nhận kỷ
luật chắc chắn sẽ rút ra được bài học cho mình để sửa chữa tiến bộ, để không
tái phạm những lỗi lầm đã mắc phải. Ngược lại, những người có khuyết điểm mà
thiếu thành khẩn, không dũng cảm nhận kỷ luật thì thật khó rút ra bài học để
sửa chữa và sớm muộn sẽ tái phạm.
Thường xuyên tự phê bình và phê bình nghiêm khắc là biện pháp
hữu hiệu để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao khả năng “tự đề kháng”, phòng chống
những biểu hiện thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu
quả. Để làm tốt công việc này, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy,
người đứng đầu cần nhận thức rõ ràng về vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa, tác
dụng và sự cần thiết của việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng. Chỉ
có trên cơ sở thống nhất về nhận thức chúng ta mới có sự đồng thuận và quyết
tâm trong tổ chức thực hiện, duy trì chế độ tự phê bình và phê bình thường
xuyên, nghiêm túc.
Môi trường sống, môi trường làm việc cũng là những yếu tố ảnh
hưởng lớn đến việc tự phê bình và phê bình, cụ thể hơn là ảnh hưởng đến sự tồn
tại, phát triển cái tốt, cái xấu trong mỗi con người. Vì thế nếu không có một
môi trường dân chủ, mọi người chân thành, thẳng thắn thì thật khó để mỗi cán
bộ, đảng viên thành khẩn tự phê bình, tự giác nhận kỷ luật. Do đó cần phải tạo
ra một môi trường thuận lợi, động viên, khích lệ cán bộ, đảng viên nêu cao ý
thức tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
Tự phê bình, tự kiểm điểm một cách thành khẩn, dũng cảm trước
tập thể là việc không thể thiếu trong nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Dẫu biết là khó khăn, đau đớn, nhưng nếu từng người không thành khẩn, không tự
giác nhận rõ, nói ra những lỗi lầm, khuyết điểm của mình và tiếp thu góp ý của
người khác một cách cầu thị mà cố tình lấp liếm, bao biện thì chắc chắn không
thể sửa chữa tiến bộ được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ví việc thiếu thành
khẩn nhận khuyết điểm, thiếu tự giác nhận kỷ luật như "giấu giếm tật bệnh
trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính
mạng". Và, theo Người, thang thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa trị căn bệnh
ấy chính là tự phê bình và phê bình. Nhưng muốn phê bình người khác thì trước
hết mỗi đảng viên phải phê bình nghiêm túc mình trước đã.
Tự phê bình thành khẩn, tự giác nhận khuyết điểm là cơ sở để các
đảng viên thẳng thắn, chân tình phê bình chỉ rõ cho nhau những điểm mạnh, điểm
yếu để từ đó có biện pháp phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu,
phấn đấu chuyển biến tiến bộ. Tự phê bình và phê bình sẽ mất đi ý nghĩa và mục
đích đầy tính nhân văn của nó nếu để xảy ra tình trạng làm qua loa đại khái,
thiếu thành khẩn, thiếu tự giác, lợi dụng tự phê bình và phê bình để “bới lông
tìm vết”, tranh công đổ lỗi, dùng những lời lẽ thiếu văn hóa để khích bác, miệt
thị, nói xấu lẫn nhau, dẫn đến nội bộ mất đoàn kết. Mục đích cao nhất của tự
phê bình và phê bình không gì khác đó là vì sự tiến bộ của mỗi cá nhân và sự
vững mạnh của tập thể. Chỉ có thành khẩn nhận khuyết điểm, tự giác nhận kỷ
luật mới giúp từng đảng viên và toàn Đảng ta nâng cao được vai trò lãnh đạo,
củng cố niềm tin trong nhân dân.
Nhận xét
Đăng nhận xét