Độc lập, tự chủ - đường lối xuyên suốt cách mạng Việt Nam
Các thế lực thù địch
lại nhao nhao tung ra các luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả của
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Trong đó, phủ nhận
đường lối cách mạng độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trọng tâm
mà họ hướng vào. Đây là một luận điệu hiểm độc, cần kiên quyết đấu tranh bác
bỏ.
Họ rêu rao rằng: đường lối kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thực chất là
chiêu bài dựa dẫm bên ngoài của Đảng Cộng sản, nhằm đưa Việt Nam rời
khỏi quỹ đạo của nước này, rồi chui vào gông cùm của nước khác, chứ không
phải vì độc lập, tư do của dân tộc. Đường lối đó do nước ngoài
áp đặt, không có gì là “độc lập, tự chủ”, không xuất phát từ nguyện vọng của
nhân dân, như Đảng Cộng sản vẫn tuyên truyền, v.v.
Tung ra những luận điệu đó, họ đã cố tình phớt lờ bối cảnh đất nước cũng như
khát vọng của dân tộc ta những năm đầu thế kỷ XX. Ai cũng biết, dưới chế độ
thực dân, phong kiến, đất nước bị xâm lăng, người dân sống vô cùng cơ cực, lầm
than dưới sự áp bức, nô dịch của kẻ thù; bởi vậy, mong muốn lớn nhất của nhân
dân ta là đất nước độc lập, nhân dân tự do, được làm chủ vận mệnh của mình.
Song, để có điều đó chúng ta không thể ngồi yên chờ đợi hoặc trông mong sự
“giúp đỡ” của người khác. Hơn ai hết, nhân dân ta hiểu rõ “đem sức ta mà giải
phóng cho ta”, bằng con đường riêng của mình. Đó là đường lối kháng chiến độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng ta, sự lựa chọn duy nhất đúng của nhân
dân ta không chỉ trong thời điểm, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc,
trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn xuyên suốt sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã chứng
minh: tinh thần độc lập, tự chủ là nhân tố cốt lõi đưa dân tộc Việt Nam vượt
qua mọi thử thách cam go để chiến thắng các thế lực xâm lược, phá tan mọi mưu
đồ đồng hóa của ngoại bang,… bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển của đất
nước.
Tiếp thu truyền thống của dân tộc, nhận rõ tình cảnh của người dân mất
nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với khát vọng cháy
bỏng: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi. Trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã xác định mục tiêu,
phương hướng chiến lược của cách mạng, trong đó nhấn mạnh: phải đánh đổ thực
dân, đế quốc, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Đặc biệt, tại Hội nghị
Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), thống nhất với tư tưởng đó, Đảng ta chỉ
rõ: trong lúc này, “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không
đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Với mục tiêu bất di bất
dịch là độc lập, tự do của dân tộc và đường lối dựa vào sức
mạnh của toàn dân, Đảng đã thức tỉnh, động viên, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng
yêu nước, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp,… tạo
được sức mạnh to lớn để đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám
lịch sử; khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong kháng chiến chống Pháp, trước một đội quân xâm lược có vũ khí, trang
bị mạnh hơn nhiều lần, lại được đế quốc Mỹ tiếp sức, Đảng ta đã lựa chọn con
đường dựa vào sức mình là chính; tổ chức, động viên nhân dân
nêu cao quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”3 để giữ vững nền độc lập non trẻ.
Đồng thời, phát động toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
trường kỳ kháng chiến; tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em và quốc tế;
giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa độc lập dân tộc và
người cày có ruộng; thực hiện giảm tô, giảm tức, chia lại đất cho nông dân; kêu
gọi nhân sỹ, trí thức ở nước ngoài về tham gia kháng chiến, v.v. Nhờ đó, cách
mạng đã giải quyết đúng lợi ích của các bộ phận; nâng cao đời sống của nhân dân,
nhất là giai cấp nông dân; thu hút nhiều trí thức trình độ cao về nước,… tạo
nên sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh thần cho tiền tuyến đánh thắng kẻ
thù. Với đường lối đúng đắn của Đảng, tài thao lược của bộ thống soái tối cao,
tinh thần dũng cảm của Quân đội và nhân dân, chúng ta đã làm nên những chiến
công vang dội: Việt Bắc (1947); Biên Giới (1950),… đặc biệt là chiến thắng Điện
Biên Phủ (1954), buộc kẻ thù phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định
Giơ-ne-vơ (1954). Theo Hiệp định, sau hai năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống
nhất đất nước. Nhưng với mưu đồ đen tối, đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam, tổ
chức ra chính quyền bù nhìn, viện trợ kinh tế, quân sự, biến miền Nam thành
thuộc địa thực dân kiểu mới, v.v.
Cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong bối cảnh hết
sức khó khăn. Bởi, Mỹ là một cường quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng
hậu, lại có nhiều tham vọng ở khu vực Đông Nam Á. Trong lúc đó, tình hình quốc
tế hết sức phức tạp; xu thế tạm thời hòa hoãn giữa hai “phe” đang nổi lên và
người ta đang nói nhiều về “trường kỳ mai phục”, “thi đua hòa bình”, v.v. Việt
Nam không phải là nước duy nhất bị chia cắt thành hai miền. Song, kiên định mục
tiêu, đường lối đã đề ra, Đảng ta khẳng định con đường cách mạng Việt Nam
là đấu tranh vũ trang, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam; phát huy cao độ sức mạnh của tiền tuyến lớn và hậu phương lớn,
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, v.v.
Đánh giá đúng tình hình cách mạng miền Nam, Đảng ta xác định phải tiến hành
đường lối chiến tranh nhân dân; đồng thời, vạch ra phương thức,
phương châm, phương pháp cách mạng, nghệ thuật tập hợp quần chúng đúng đắn, với
tinh thần: “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”, “xe chưa qua nhà không tiếc”, v.v. Thực tiễn cách mạng
ở miền Nam từ phong trào Đồng Khởi đến đánh thắng các chiến lược: “chiến tranh
đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” cũng như Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đã chứng minh tính đúng đắn của phương
thức kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; phương
châm “hai chân, ba mũi, ba vùng” và sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh
chính trị, đấu tranh quân sự, binh vận và đấu tranh ngoại giao. Cùng với tiến
hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, buộc địch phải phân tán lực lượng đối
phó, chúng ta tập trung sức mạnh của các đơn vị chủ lực với sự nổi dậy của nhân
dân vùng tạm chiếm để đánh bại các cuộc tiến công, phản công của địch.
Sát cánh
cùng đồng bào miền Nam thành đồng, bất khuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân miền Bắc đã vượt qua nhiều hy sinh, gian khổ; chung sức, chung lòng
vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần “tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng”, “mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào
miền Nam ruột thịt”, v.v. Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền
Bắc, hưởng ứng lời kêu gọi: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”4 của
Bác Hồ, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu (bắn rơi 3.969 máy bay, trong đó
có 61 máy bay B.52; bắn chìm 168 tàu chiến; bắt sống nhiều phi công), làm nên
chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Chiến thắng đó đã góp phần đánh bại
hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Pa-ri
và rút quân về nước, tạo điều kiện để chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước độc lập,
thống nhất, mở ra một thời kỳ mới để nhân dân ta xây dựng đất nước giàu mạnh,
nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó
nhân tố quyết định là đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại của Đảng ta.
Thế nhưng, các thế lực thù địch với bản chất hiếu chiến xâm lược không từ
bỏ dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về
ngoại giao,... hòng làm cho đất nước ta kiệt quệ, đi đến sụp đổ. Nhưng, dưới sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; đoàn kết, ra sức khắc phục khó khăn, tiến hành công cuộc
đổi mới ngày càng giành những thắng lợi to lớn. Thành tựu nổi bật và cơ bản
nhất là chúng ta đã giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ; từng bước phá thế bao vây cô lập của kẻ thù, ngăn chặn và đẩy lùi mọi mưu
đồ chống phá của các thế lực thù địch, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây
dựng đất nước, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Trước những diễn biến hết sức phức tạp trên Biển Đông, toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh trên cơ sở tuân thủ luật
pháp quốc tế để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, v.v. Nhờ
đó, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng được
nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ càng được tăng cường.
Rõ ràng, những luận điệu xuyên tạc mục tiêu độc lập, tự do và đường lối độc
lập, tự chủ của Đảng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây
cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là vô căn cứ và hết sức
lố bịch. Trái với luận điệu kệch cỡm của các “nhà dân chủ” cho rằng: đường lối
của Đảng do nước ngoài áp đặt. Thực tiễn 87 năm qua chứng minh: đường lối của
Đảng ta bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc, xuất phát từ nhu cầu
lịch sử của đất nước, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, nên tập hợp được tất
cả sức mạnh của đồng bào trong nước, kiều bào nước ngoài, cũng như sự ủng hộ
của bạn bè quốc tế. Thắng lợi của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa
đất nước thoát khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trở thành một
quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,… ngày càng có vai trò và uy
tín cao trên trường quốc tế. Thắng lợi đó, cùng với những thành tựu của 30 năm
đổi mới vừa qua, càng làm cho nhân dân ta tin tưởng và quyết tâm theo Đảng, ra
sức phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Đó là minh chứng thuyết phục nhất, sự bác bỏ hùng hồn nhất đối
với các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Nhận xét
Đăng nhận xét