Những bước tiến mới trên lĩnh vực quyền con người ở nước ta
Tôn trọng và bảo đảm
quyền con người luôn là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Trong các
thời kỳ khác nhau, quyền con người ở Việt Nam đạt được những kết quả tương
xứng. Những năm qua, việc bảo đảm quyền con người ở nước ta có những bước tiến
mới, đó là hiện thực mà không một ai có thể phủ nhận được.
Không
phủ nhận rằng, trong những thời kỳ lịch sử trước đây, như: trong cách mạng giải
phóng dân tộc, kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước (1945 - 1975) và
trong thời kỳ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa theo mô hình chủ nghĩa xã hội
kiểu cũ (1975 - 1986), do nhiều yếu tố, Đảng, Nhà nước ta chưa có điều kiện để
bảo đảm đầy đủ các quyền con người.
Sau
khi Liên Xô tan rã, các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, các
thế lực thù địch trong và ngoài nước đã đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn
biến hòa bình” chống phá chế độ xã hội, Nhà nước ta, hòng chuyển hóa chế độ ta
sang mô hình “dân chủ, nhân quyền” ngoại nhập. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà
nước ta một mặt, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; mặt
khác, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thay đổi mô hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, từ mô hình kiểu cũ sang
mô hình kiểu mới. Đảng ta khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh;… ”1 và “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân”2. Do vậy, quyền con người ở nước ta đạt được
những thành tựu quan trọng. Đó là những bước tiến mới về nhân quyền ở nước ta
không thể phủ nhận.
Trước hết, về mặt pháp lý,
dựa trên Cương lĩnh, đường lối của Đảng cho đến nay, Việt Nam đã gia nhập hầu
hết các công ước quốc tế chủ chốt về quyền con người. Trong đó có 2 công ước cơ
bản quy định đầy đủ các quyền con người. Đó là “Công ước quốc tế về các Quyền
Dân sự, Chính trị”, 1966; “Công ước quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn
hóa”, 1966. Đồng thời, Việt Nam đã ký kết, gia nhập các công ước chuyên biệt.
Đó là “Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc”, “Công ước về Xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ”,... và gần đây (năm 2014) là
“Công ước chống Tra tấn”. Việt Nam cũng đã tham gia 20 công ước của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO), trong đó có 5 công ước cơ bản về lao động, việc làm, v.v.
Thực hiện các cam kết quốc tế, Nhà nước ta đã nội luật hóa các công ước nói
trên vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Năm
2013, lần đầu tiên, Hiến pháp Việt Nam đã dành cả một chương - chương II - quy
định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Khoản 1, Điều
14 của Hiến pháp quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Có thể
nói, Hiến pháp năm 2013 cùng với hệ thống pháp luật hiện nay của Nhà nước ta
không chỉ tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người, mà còn được
cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những hệ thống pháp luật tiến bộ hàng
đầu trên thế giới. Chính vì vậy, Việt Nam đã trở thành thành viên Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016), Hội đồng Kinh tế - Xã hội (2016 -
2018) và gần đây, được bầu vào Ủy ban Pháp luật Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2016 -
2021)3.
Trong
những năm qua, các quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa
được Đảng và Nhà nước quan tâm và đạt được những thành quả to lớn: tốc độ tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá, thu nhập bình quân đầu người từ 1.024
USD/năm (năm 2008) đã tăng lên 2.200 USD (ước tính năm 2016). Việt Nam đã gia
nhập nhóm các nước thu nhập trung bình thấp từ năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo giảm
nhanh, từ 13,7% năm 2008 xuống dưới 5% vào năm 2015.
Là
quốc gia còn nghèo, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho nhóm
nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chương trình 135 “hỗ
trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó
khăn” là một ví dụ. Chương trình 135 giai đoạn III (2016 - 2020)4 đã
được Nhà nước đầu tư 239.316,6 tỷ dành cho xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo
bền vững. Nhà nước đã dành gói hỗ trợ 30 nghìn tỷ đồng (triển khai từ tháng
6-2013) giúp người thu nhập thấp ở đô thị cải thiện chỗ ở.
Gần đây, Nhà nước đã quyết định giao
cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện mức lãi suất thấp cho người vay là
4,8%/năm, thời hạn cho vay tối thiểu là 15 năm và tối đa không quá 25 năm, kể
từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên. Tương tự như chính sách đối với người
nghèo, cho đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho hàng trăm ngàn học sinh,
sinh viên nghèo vay với lãi suất thấp.
Trên
một bình diện khác, việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, tất yếu phải đấu
tranh với những cá nhân, tổ chức lợi dụng chức vụ, địa vị xâm hại các nguồn lực
kinh tế của xã hội và Nhà nước. Trong thời gian qua, theo sự chỉ đạo của Đảng,
nhiều vụ việc, vụ án đã được điều tra, hoặc đưa ra xét xử. Đó là việc Chính phủ
giao cho cơ quan chức năng thanh tra Dự án Núi Pháo tại Thái Nguyên về nhiều
mặt; Dự án Mobifone (mua 95% cổ phần của Công ty cổ phần nghe nhìn Toàn Cầu
(AVG) đang thua lỗ lớn, có dấu hiệu mờ ám về tài chính), gây thất thoát hàng
nghìn tỷ đồng ngân sách nhà nước. Hoặc đưa ra xét xử vụ án Ngân hàng Xây dựng
Việt Nam do Phạm Công Danh (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị) làm thất
thoát hơn 9.000 tỷ đồng.
Liên
quan đến các dự án xây dựng đường giao thông theo hình thức BOT, Chính phủ đã
yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải tổng kết và đánh giá lại 5 năm thực hiện xã hội
hóa đầu tư hạ tầng giao thông (bao gồm tiến hành kiểm toán, quyết toán chặt chẽ
các dự án BOT để xác định mức phí và thời hạn thu phí); kiểm tra phí đường
bộ (theo phương thức BOT) yêu cầu nhà đầu tư phải minh bạch về chi phí, thu phí
trước công luận. Đây là những ví dụ về việc bảo vệ lợi ích của người dân một
cách thiết thực.
Thứ
hai, quyền con người về mặt dân sự, chính trị đã có những thành quả to
lớn. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV là một ví dụ. Tổng số cử tri đi
bầu lên đến 67.485.480 người; số cử tri đã bỏ phiếu đạt 99,35%. Về cơ cấu đại
biểu, trong số 500 đại biểu có 86 người là dân tộc thiểu số, 133 người là phụ
nữ, 21 người ngoài Đảng, v.v. Trình độ văn hóa của đại biểu Quốc hội khóa XIV
cao nhất so với các khóa trước: trên đại học 310 người (chiếm 62,50%), đại học
180 người (36,30%), dưới đại học 6 người. Tỷ lệ đại biểu là phụ nữ và là người
dân tộc thiểu số của Quốc hội ta so với nhiều quốc gia ở khu vực thuộc vào loại
cao. Lần đầu tiên Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội là nữ.
Hoạt
động Quốc hội trong những năm qua, nhất là những năm 2015, 2016 đã có những đổi
mới theo hướng thực hiện tốt hơn cơ chế “kiểm soát” quyền lực, xem xét kỹ các
Báo cáo của Chính phủ và các ngành. Đồng thời, các đại biểu cũng đã chuyển tải
khá đầy đủ ý kiến của cử tri đến diễn đàn Quốc hội, v.v. Theo dõi các kỳ họp
Quốc hội, người ta thấy các đại biểu đã đặt nhiều câu hỏi thẳng thắn yêu cầu
các thành viên Chính phủ phải minh bạch hóa các thông tin và giải trình những
chương trình, dự án (như dự án thủy điện, dự án vay vốn nước ngoài, dự án xây
sân bay, điện hạt nhân,…) mà người dân và giới khoa học quan tâm. Mới đây, sự
kiện Công ty Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ra sự cố môi trường nghiêm
trọng, hủy hoại môi trường biển, ảnh hưởng cuộc sống của gần 300 ngàn người ở 4
tỉnh miền Trung; hoặc “sự cố truyền thông” (tháng 10-2016) liên quan đến thông
tin về Asen trong nước mắm do Hội Bảo vệ người tiêu dùng công bố, đã trở thành
những chủ đề “nóng” trong sinh hoạt Quốc hội, v.v.
Trong
thời gian qua, nhằm đưa Hiến pháp năm 2013 (trong đó có quyền con người) vào
cuộc sống, ba vụ trọng án đã được đưa ra xem xét lại. Đó là vụ án ông Nguyễn
Thanh Chấn bị bắt và tù oan từ năm 2003, vụ án ông Huỳnh Văn Nén bị bắt và tù
oan từ năm 1998, vụ án ông Trần Văn Thêm bị bắt và tù oan từ năm 1970 đến nay
đã được minh oan, công khai xin lỗi và bồi thường.
Thứ
ba, quyền tự do ngôn luận, báo chí được tôn trọng, mở rộng. Hiện
nay cả nước có 105 báo, tạp chí (tăng 7 báo so với năm 2014). Trong đó có 83
báo, tạp chí điện tử của cơ quan báo chí in và 22 báo, tạp chí điện tử độc lập.
Tổng số trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí được cấp phép
hoạt động là 248. Trong 5 năm qua, đã tăng 44 cơ quan báo chí điện tử. Về phát
thanh, truyền hình, hiện cả nước có 67 đài; trong đó, có các đài quốc gia là
Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam.
Ngoài
hệ thống thông tin, báo chí, truyền thông trong nước, người dân Việt Nam ngày
nay còn được tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và kênh truyền hình
nước ngoài, như: Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN và nhiều báo, tạp chí quốc tế
lớn khác.
Có
thể nói ở Việt Nam cho đến nay đã có gần như đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho
“thế giới phẳng”. Các công cụ tìm kiếm, lưu trữ thông tin trên in-tơ-nét, như:
Google, Yahoo, YouTube,… đến các trang mạng xã hội trong và ngoài nước, các
web, blog cá nhân đều có thể truy cập bất cứ lúc nào. Theo đánh giá của nhiều
tổ chức quốc tế, mạng Facebook ở Việt Nam phát triển nhanh nhất khu vực. Với
in-tơ-nét, người dân Việt Nam có thể trực tiếp thể hiện trên cả hai tư cách:
người tiếp cận thông tin và người sử dụng in-tơ-nét. “Cư dân mạng” lúc nào cũng
có thể đọc tin, viết bài, bình luận, chia sẻ trên mạng về bất cứ vấn đề gì. Có
người cho rằng, ở Việt Nam, in-tơ-nét đã trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống tinh thần xã hội.
Tuy
nhiên, để bảo vệ quyền con người với tư cách là lợi ích xã hội và quyền của cá
nhân, Nhà nước ta đã phải xử lý những trường hợp lợi dụng quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tự do sử dụng in-tơ-nét vi phạm pháp luật, vi phạm quyền
cá nhân. Vừa qua, Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh Khánh Hòa đã tống đạt
quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam và khám xét đối
với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (quy định tại Điều 88, Bộ luật Hình sự). Hoặc Bộ
Thông tin và Truyền thông đã tạm thời đình chỉ báo PetroTimes và thu thẻ nhà
báo của Tổng biên tập vì đã đăng tải bài trả lời phỏng vấn của “Người buôn gió”5 -
Bùi Thanh Hiếu, trả lời phỏng vấn về vụ Trịnh Xuân Thanh. Bài phỏng vấn đã
đưa tin sai sự thật và xâm phạm danh dự của cá nhân, tổ chức.
Thứ
tư, Đảng và Nhà nước ta xem việc tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo; quyền của các dân tộc thiểu số là nghĩa vụ của mình, hơn
nữa là một phần nền tảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên thực tế,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho tín
đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân
tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều
được chính quyền các cấp bảo hộ, quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động bình
thường. Ở Việt Nam, không một tôn giáo nào (hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật) bị cấm đoán. Không một công dân nào bị ép buộc theo hoặc không theo một
tín ngưỡng, tôn giáo nào.
Để
bảo đảm các quyền về kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số, Nhà
nước ta đặc biệt chú ý đến xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Hiện đã có 92% số
xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 95% số xã có điện; 80% số xã có thủy lợi
nhỏ; 65% số xã có công trình nước sinh hoạt. Việc bảo đảm quyền tiếp cận
giáo dục là mục tiêu cơ bản trong chính sách phát triển của Nhà nước Việt Nam.
Hệ thống cơ sở vật chất đã được xây dựng tương đối đồng bộ ở tất cả các xã vùng
dân tộc thiểu số cùng hệ thống điểm trường ở thôn, bản, hệ thống các trường dân
tộc nội trú, trường bán trú dân nuôi, cùng với chính sách hỗ trợ sinh hoạt phí
cho học sinh nghèo đã giúp cho con em đồng bào dân tộc thiểu số có cơ hội đến
trường, tiếp cận nền giáo dục quốc gia. Đến năm 2012, tỷ lệ biết chữ (phạm vi
từ 10 tuổi trở lên) trong đồng bào dân tộc thiểu số là 83,8% - một con số rất đáng
mừng so với thời kỳ trước năm 1975. Hệ thống y tế, đặc biệt là mạng lưới y tế
cơ sở được củng cố và phát triển rộng khắp, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Mạng lưới trạm y tế đã phủ tới 99% số xã. Hệ thống
bệnh viện đa khoa tuyến huyện bao phủ tất cả các huyện vùng đồng bào dân tộc
thiểu số trong cả nước.
Thứ
năm, quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương, yếu thế (trong đó có nữ
giới, trẻ em) được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả nước có
hơn 26 triệu trẻ em, trong đó có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
và gần 2,5 triệu trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặt biệt6. Hằng
năm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức
liên quan và các địa phương phát động “Tháng hành động vì trẻ em” (tháng 6)
nhằm vận động toàn xã hội chung tay bảo vệ, chăm sóc trẻ em, tạo môi trường
sống an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ,
tinh thần. Chăm sóc về y tế được Nhà nước ta đặc biệt chú ý.
Chương
trình “Trái tim cho em” do Đài Truyền hình Việt Nam và Tập đoàn Viễn thông Quân
đội Viettel tổ chức, sau 7 năm thực hiện đã quyên góp được 90 tỷ đồng và hỗ trợ
phẫu thuật thành công cho 2.700 em nhỏ dưới 16 tuổi mắc bệnh tim bẩm sinh, có
hoàn cảnh khó khăn.
Về quyền của nữ giới, từ năm 2010
đến nay, Quốc hội đã ban hành 40 đạo luật. Trong đó, quyền của nữ giới đã được
lồng ghép đầy đủ trong hệ thống pháp luật Quốc gia. Chương trình hành động Quốc
gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020 với mục tiêu “Giảm khoảng cách
giới và nâng cao vị thế của phụ nữ trong một số lĩnh vực, ngành, vùng,
địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới
cao, góp phần thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011 – 2020”7.
Trong
cơ quan lãnh đạo Đảng (khóa XII) có tới 3 thành viên của Bộ Chính trị là nữ,
chiếm 15,78%; hơn 50% trong các bộ, ngành, cơ quan trung ương có cán bộ nữ giữ
vị trí chủ chốt.
Trong
lĩnh vực lao động - việc làm, hiện nay lao động nữ vẫn duy trì ở mức cao và đạt
48,3% trong tổng số lực lượng lao động cả nước; phụ nữ tham gia điều hành, quản
lý doanh nghiệp đạt 24,9%. Trong lĩnh vực sức khỏe, tỷ lệ tử vong ở người mẹ đã
giảm hơn 3 lần, từ 233 bà mẹ/100.000 trẻ vào năm 1990 xuống còn 59 bà mẹ/100.000
trẻ vào năm 2014 và ước năm 2015 là 58,3 bà mẹ/100.000 trẻ.
Thứ
sáu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người đã được Nhà nước ta
thúc đẩy mạnh mẽ. Trước hết, đó là thể chế chính trị của Nhà nước, chế độ
xã hội ta đã được các quốc gia tôn trọng. Trong Văn kiện đối tác Toàn diện được
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama ký kết (7-2013)
đã khẳng định: “nguyên tắc các bên tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật
pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau”. Nguyên tắc này đồng nghĩa với việc Hoa Kỳ tôn trọng chế độ xã
hội do Đảng ta lãnh đạo, tôn trọng hệ thống pháp luật Việt Nam. Những khác biệt
nào đó giữa hai bên chỉ có thể rút ngắn thông qua đối thoại và hợp tác bình
đẳng. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã thực hiện đối thoại về nhân quyền với
nhiều quốc gia, tổ chức và đón nhiều đoàn đại diện của cơ quan nhân quyền của
Liên hợp quốc. Gần đây, Việt Nam đã đối thoại với Australia, Hoa Kỳ, Thụy sỹ,
EU, v.v.
Bảo
đảm quyền con người là mục tiêu của mọi quốc gia. Thành quả về quyền con người
của Việt Nam là rất lớn, đã và đang hiện hữu mà không ai có thể phủ nhận được.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều thách thức. Được sống
trong môi trường trong lành đã được cộng đồng quốc tế xem là một quyền cơ bản
và quan trọng của mọi người. Thế nhưng, tình trạng môi trường bị ô nhiễm nghiêm
trọng là một thách thức lớn về quyền con người của chúng ta.
Trên lĩnh vực bảo đảm quyền dân sự,
chính trị trong bối cảnh kinh tế thị trường, thách thức lớn đối với chúng ta
hiện nay là tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tình trạng quan
liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm,… của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) đã chỉ ra không chỉ tác động tiêu cực đến niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, mà còn tác động tiêu cực đến việc bảo
vệ quyền con người của nhân dân ta.
Tuy
nhiên, chúng ta có đầy đủ cơ sở để tin rằng, đi theo con đường của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, thực hiện Cương lĩnh của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, nhất định nhân dân ta sẽ ngày càng có cơ hội hưởng thụ đầy đủ hơn các
quyền con người.
Nhận xét
Đăng nhận xét