Bàn thêm về nguyên nhân “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và giải pháp phòng, chống
Trải qua các thời kỳ cách mạng, chưa bao giờ Đảng ta phải đối
mặt với nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” phức tạp, nguy hiểm như hiện
nay, là một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Đại hội lần thứ XII
của Đảng đề ra yêu cầu, nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng là đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII chỉ
rõ 9 biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và xác định có cả
nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng chủ yếu vẫn là do nguyên nhân
chủ quan. Ở đây xin đề cập thêm về nguyên nhân chủ quan và các giải pháp
phòng, chống:
Những nguyên nhân
1. Những nguyên nhân từ nội tâm
một số cán bộ, đảng viên: Trước hết, là do thiếu thông tin, kém lý
luận, nhận thức sai hoặc chưa đầy đủ về con đường, mục tiêu cách
mạng XHCN ở nước ta, không hoặc chưa hiểu biết sâu sắc về quy luật
phát triển của xã hội. Thứ hai, một số cán bộ, đảng viên hoang mang,
dao động trước những khó khăn, thử thách; mơ tưởng hão huyền vào chủ
nghĩa tư bản, đa nguyên đa đảng; thiếu niềm tin vào sự thắng lợi chắc
chắn của cách mạng XHCN và sự lãnh đạo của Đảng, vai trò Nhà nước.
Thứ ba, bệnh suy thoái về đạo đức, lối sống có tốc độ lây lan nhanh,
đến một mức độ, phạm vi nào đó sẽ nảy sinh tâm lý bất mãn, giảm
sút niềm tin, thoái chí chiến đấu, thiếu lương tâm, trách nhiệm trước
Đảng, trước dân, dễ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
2. Những nguyên nhân xuất phát
từ cơ chế: Cơ chế dân chủ còn nhiều bất cập, các hình thức dân chủ
chưa được thực hiện đầy đủ, còn mang nặng tính khẩu hiệu. Cơ chế
quản lý chưa thích ứng với cơ chế thị trường, còn nhiều sơ hở, bất
cập, dễ thất thoát. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
hiệu quả chưa cao, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo,
nhiều cấp chỉ đạo, trách nhiệm chưa cụ thể, thiếu sự giám sát của
nhân dân. Công tác kiểm tra, thanh tra nhiều nơi còn phụ thuộc, chạy
theo vụ việc. Các loại cơ chế quan trọng khác để thực hiện công
bằng; kiểm soát quyền lực; phản biện xã hội; dân biết, dân làm, dân
bàn, dân kiểm tra; quy trình xây dựng ban hành đường lối, chính sách,
pháp luật... vẫn chưa hoàn thiện, thiếu khoa học, còn nhiều bất cập.
3. Những nguyên nhân xuất phát
từ lý luận, thông tin: hệ thống lý luận chậm hoàn thiện, chỉ tính
riêng việc xác định mục tiêu đổi mới phải mất 05 nhiệm kỳ (25 năm)
bổ sung liên tục mới đủ “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”; chúng ta cũng chưa có một hệ thống lý luận hoàn chỉnh dành
riêng cho sự nghiệp đổi mới, trước hết là lý luận về kinh tế thị
trường định hướng XHCN, về tập trung dân chủ... thông tin chưa kịp
thời, đầy đủ tạo những khoảng trống để các thế lực thù địch xuyên
tạc, nói xấu. Mặt khác, công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đào
tạo lý luận, tuyên truyền còn nhiều hạn chế, nhất là ở địa phương,
cơ sở; số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo chưa tương
xứng với yêu cầu của thực tiễn; sức chiến đấu của một số cán bộ,
đảng viên trên mặt trận tư tưởng tỏ ra non kém, coi nhẹ, lúng túng,
phản ứng yếu ớt trước những luận điệu sai trái.
4. Những nguyên nhân xuất phát
từ công tác cán bộ: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn nhiều bất cập
hạn chế, tình trạng bổ nhiệm trước, đào tạo sau để hợp thức hóa
bằng cấp vẫn còn; đào tạo không sát với công tác, không phù hợp với
độ tuổi; nội dung, chương trình còn rườm rà, phức tạp; tiêu cực trong
đào tạo thi cử còn nhiều. Bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả, biên chế
thừa, cố giảm nơi này lại tăng nơi khác tạo gánh nặng cho ngân sách;
tình trạng chạy chỗ, chọn việc còn phổ biến; bố trí cán bộ không
hợp lý, mất cân đối, gây bức xúc, lãng phí nhân lực. Cơ chế bổ
nhiệm nhiều nơi chưa dân chủ, công bằng; chưa có cơ chế hữu hiệu để
trọng dụng người tài đức, gây bất mãn, “chảy máu” chất xám. Chế độ
tiền lương chưa hợp lý, một bộ phận lớn cán bộ lương thấp, không thể
bảo đảm cuộc sống, nhất là tại những đô thị lớn có chi phí vật
giá cao dễ dẫn đến tham nhũng. Việc xử lý cán bộ sai phạm chưa
nghiêm, có trường hợp chưa được sự đồng tình của tập thể, của nhân
dân. Công tác phòng, chống tham nhũng còn hạn chế, mới chỉ kết quả
bước đầu; chưa giải quyết tận gốc rễ của tham nhũng, nguyên nhân,
điều kiện nảy sinh tham nhũng vẫn còn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình chưa có cơ chế khoa học để thực hiện
nên không tránh khỏi hình thức. Tồn tại sự chênh lệch về độ “màu
mỡ”, thuận lợi, khó khăn giữa các loại chức vụ, công việc sinh ra
chạy chức, chạy chỗ, chạy việc rất tệ hại.
Một số giải pháp
Để khắc phục những nguyên nhân
trên, có nhiều nhóm giải pháp, nhưng không thể không chú ý đến những
giải pháp sau:
Trước hết, hoàn thiện hệ
thống lý luận cả về tổng thể cho thời kỳ quá độ và cụ thể cho
từng giai đoạn ngắn, nhất là lý luận về kinh tế thị trường định
hướng XHCN, tập trung dân chủ, cơ chế quản lý, điều hành, vai trò của
Đảng, Nhà nước, việc đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh
tế... công khai tất cả mọi thông tin (trừ những thông tin thuộc bí mật
Nhà nước) để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, không để tồn tại những
gì mờ ám, khuất tất vì đó là chỗ dễ nảy ra những nghi ngờ, xuyên
tạc. Đồng thời, tăng cường giáo dục, đào tạo, tuyên truyền nâng cao
trình độ lý luận, nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan của
quá trình tiến lên CNXH, bản chất ưu việt của CNXH và tính lạc hậu,
lỗi thời của CNTB. Chứng minh bằng lý luận và thực tiễn để củng cố
niềm tin cho cán bộ, đảng viên; làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
“mắt thấy, tai nghe” sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, năng
lực của hệ thống; phải coi việc công khai nhận và sửa chữa khuyết
điểm, yếu kém là một cách tạo niềm tin cho tập thể, nhân dân chứ
không phải ngược lại; cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý phải tự xây dựng uy tín cho mình bằng cơ chế hứa và
thực hiện lời hứa, cam kết và thực hiện cam kết. Mỗi cán bộ, đảng
viên phải có khả năng chiến đấu mãnh liệt trên mặt trận lý luận, tư
tưởng. Thường xuyên xây dựng đạo đức cách mạng; nội dung là đạo đức
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những tấm gương phải là những người đang
công tác, cống hiến; nhất định phải giáo dục đi trước, kỷ luật theo
sau, không trông chờ quá nhiều vào sự tự giác thực hành đạo đức của
cán bộ; có cơ chế để nhân dân phán xét, kiểm soát hành vi đạo đức
của cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, từng bước hoàn thiện
cơ chế để thực hiện đầy đủ các hình thức dân chủ, như bầu cử, ứng
cử, tiến cử, giới thiệu, lựa chọn cán bộ, bỏ phiếu, bãi miễn, tham
gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát, tiếp cận thông tin, góp ý,
phê bình... phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách mạng nước ta.
Hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực,
tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ vào quản lý, việc gì mà
dùng máy móc kỹ thuật được thì nhất định không sử dụng con người.
Có cơ chế công khai, minh bạch để nhân dân giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật, dự án. Độc lập hóa, công khai hóa, tập thể
hóa công tác kiểm tra, thanh tra dưới sự lãnh đạo các cấp ủy có sự
giám sát của nhiều cơ quan, tổ chức; thanh tra, kiểm tra, kiểm toán
phải thường xuyên để phòng ngừa, không để tình trạng “mất bò mới lo
làm chuồng”. Việc kiểm soát quyền lực phải có quy định chặt chẽ,
chức nào thì quyền đó, quy định cụ thể danh mục những việc thuộc
quyền được phép làm, thực hiện như thế nào, ai kiểm soát và kiểm
soát bằng cách gì và người kiểm soát có quyền gì để một người có
quyền không thể lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền... Tương tự,
xây dựng cơ chế phản biện xã hội để có nhiều người tích cực tham
gia phản biện, phản biện đúng phải được tiếp thu, phản biện nhầm
phải được giải thích, lợi dụng phản biện phải bị xử lý, có quy
định đầy đủ về nội dung, đối tượng, chủ thể, quyền hạn, trách
nhiệm, quy trình, phạm vi... phản biện xã hội. Đổi mới quy trình lập
pháp, hoạch định chính sách theo hướng sát thực tiễn và nguyện vọng
của dân, tranh thủ được trí tuệ tập thể, nghiên cứu kinh nghiệm nước
ngoài, làm cho chính sách, pháp luật đồng bộ, khoa học, khả thi, phù
hợp với xu thế phát triển, hội nhập.
Thứ ba, phải có cơ chế trọng
dụng nhân tài, đào thải “nhân hại”; tuyển dụng, bổ nhiệm, bầu cử
nhất định phải qua cơ chế thi tài, tranh tài để chọn người thắng
tài, hơn đức; có động lực mạnh để thu hút, động viên người tài cả
về vật chất và tinh thần. Cán bộ yếu kém, sai phạm nhất định phải
bị sa thải, xử lý nghiêm minh, công khai, bình đẳng. Những quyết định
trong công tác tổ chức cán bộ phải được giải thích rõ ràng, có lý,
có tình, thuyết phục được tập thể, quần chúng. Cán bộ của tập
thể, phải để tập thể tuyển, chọn trước. Công tác phòng, chống tham
nhũng nhất định phải đạt được đồng thời cả 4 yêu cầu sau:
Một là, làm cho cán bộ không
cần tham nhũng, phải tinh giản biên chế, nâng cao chế độ đãi ngộ, bảo
đảm mức sống để không phải lo toan cơm áo, luôn an tâm công tác.
Hai là, làm cho cán bộ không
thể tham nhũng được, bằng cơ chế quản lý chặt chẽ và dễ phát hiện
tham nhũng.
Ba là, làm cho cán bộ sợ, không
dám tham nhũng, xử lý thật nghiêm, triệt để, tuyệt đối công bằng,
không có vùng cấm, không có ngoại lệ hay nhạy cảm, truy thu tài sản
tham nhũng đến tận cùng.
Bốn là, phải tạo sự công bằng,
khắc phục tình trạng chênh lệch về độ “màu mỡ”, thuận lợi, khó khăn
giữa các loại chức vụ, công việc, nơi công tác.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa”
là căn bệnh nội tại cực kỳ nguy hiểm, càng để lâu càng khó chữa,
rất dễ lây lan và tái phát, nó đe dọa trực tiếp sinh mạng chính trị
của Đảng. Đòi hỏi phải dùng biệt dược và phương pháp đặc trị vừa
thường xuyên, vừa kiên trì để tấn công trực tiếp, mãnh liệt vào
nguyên nhân của nó thì mới khỏi. Đây là cuộc đấu tranh với giặc nội
xâm cho nên hết sức khó khăn và phức tạp, nhưng với quyết tâm của
Đảng, sự đồng lòng của dân, sức mạnh của xã hội thì nhất định sẽ
thắng lợi hoàn toàn.
-MD27-
Nhận xét
Đăng nhận xét