d11 Hồ Chí Minh – Từ lòng yêu nước đến con đường giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh – Từ lòng yêu nước đến con đường
giải phóng dân tộc
“Tôi luôn luôn là một người yêu nước, tranh đấu cho
độc lập và thống nhất thật sự của Tổ quốc tôi ”. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh tự
khẳng định “ Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi ”. Cho dù thế giới công nhận
Người là lãnh tụ cộng sản kiệt xuất có tầm ảnh hưởng to lớn trong thế kỷ XX,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chỉ luôn giản dị nhận mình là một người yêu nước. Rời
Tổ quốc tìm đường giải phóng dân tộc vào tháng 6-1911 để rồi 30 năm sau, Chủ
tịch Hồ Chí Minh mới trở về. 30 năm là một chặng đường dài với biết bao cuộc
trường chinh qua các đại dương và lục địa, ghi nhận sự trưởng thành của một con
người về tuổi đời, về nhận thức, tư tưởng, từ thân phận một người dân mất nước
trở thành một chiến sĩ cộng sản đầy năng lực và sáng tạo. Nhưng điều có ý nghĩa
vô cùng sâu sắc là sự trưởng thành đó gắn liền với vận mệnh của một đất nước.
tương lai của một dân tộc.
Trước
hết, cần khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường giành lại
độc lập tự do cho Tổ quốc với tấm lòng của một người Việt Nam yêu nước. Tinh
thần yêu nước của Người được hun đúc bằng truyền thống yêu nước với bề dày hàng
nghìn năm lịch sử của cha ông. Được hình thành trong quá trình dựng nước, trong
đấu tranh và bảo vệ nền độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang, chủ nghĩa
yêu nước truyền thống Việt Nam nổi bật ở tính cố kết cộng đồng chặt chẽ giữa
nhà – làng – nước để bảo vệ đất nước, bảo vệ độc lập, thống nhất dân tộc, bảo
vệ cuộc sống cộng đồng và sự trường tồn của nền văn hoá dân tộc. Tinh thần yêu
nước đã trở thành đạo lý, triết lý sống, niềm tự hào của con người Việt Nam,
khởi đầu từ lòng tự hào về “ Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người
tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước tiếng để muôn đời ”. Tiếp đó là ý
thức về quyền độc lập dân tộc, bắt đầu từ ” Nam quốc sơn hà Nam đế cư ” của
thời Lý cho đến ý chí quyết tâm “Sát Thát” ở đời Trần, tinh thần quyết chiến của
Quang Trung – Nguyễn Huệ ” Đánh cho phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam
quốc anh hùng chi hữu chủ ”, từ triết lý ” Nước là của chung chứ không phải của
một dòng họ nào ” của nhà giáo, nhà tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm đến quan điểm “
nhà nước của dân vì dân, do dân ” và ” lòng căm ghét bọn xâm lược ”.
Về
lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: “
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước ”. Thực tế từ chính cuộc
đời Người cho thấy, cậu bé Nguyễn Sinh Cung (tên khai sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh) đã được nuôi dưỡng trong truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất của
gia đình, của quê hương sông Lam núi Hồng “địa linh, nhân kiệt”. Người được
thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và ảnh
hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ là bà
Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà
tan, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực dưới sự thống trị hà khắc và tàn bạo
của thực dân Pháp. Các cuộc đấu tranh do các tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo
liên tiếp nổ ra: phong trào kháng Pháp của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, đặc
biệt là phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết khởi xướng. Tuy chiến đấu rất
anh dũng nhưng rồi các phong trào trên cũng lần lượt bị đàn áp. Thất bại của
phong trào Cần Vương chính là cái mốc đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của thời kì
đấu tranh chống Pháp giành độc lập dân tộc dưới khẩu hiệu “phò vua cứu nước”
nằm trong hệ tư tưởng phong kiến. Nó chứng tỏ giai cấp phong kiến đã không còn
đủ uy tín và lực lượng để giải quyết vấn đề giữa dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp. Đoạn tuyệt với con đường cứu nước phong kiến, những sĩ phu yêu nước đầu
thế kỷ XX hướng ra nước ngoài tìm đến những con đường cứu nước mới để mong được
giải phóng. Trong khi cụ Phan Bội Châu sang Nhật Bản tìm con đường Duy Tân,
sang Trung Quốc tìm con đường cách mạng Tân Hợi (1911) thì cụ Phan Châu Trinh
lại hướng theo con đường nghị viện tư sản của các nước phương Tây. Những con
đường đó tuy có màu sắc khác nhau nhưng đều đi theo con đường dân chủ tư sản,
không phù hợp với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Trong bối cảnh như vậy, phải
có những con người ưu tú với trí tuệ mẫn cảm và tầm nhìn vượt lên trên những
hạn chế của điều kiện lịch sử trong nước mới có khả năng tìm ra con đường giải
phóng dân tộc Việt Nam .
Với
tinh thần ham hiểu biết và học hỏi, với tư duy độc lập sáng tạo, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sớm hình thành chí hướng lớn lao và quyết tâm tìm con đường đi cho
cho riêng mình. Người rất trân trọng và khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất
của những chí sĩ yêu nước trước đó, nhưng Người cho rằng con đường Đông du của
cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ
Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ
lòng thương”. Người không theo con đường của các bậc tiền bối đã đi, mà có suy
nghĩ khác, cách thức khác. Về mục đích đi ra nước ngoài của mình, năm 1923
Người đã trả lời nhà báo Nga Ôxip Manđenxtam rằng: “ Khi tôi độ mười ba tuổi,
lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn
làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những
chữ ấy ”. Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “ Nhân dân Việt Nam
trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người
giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người
lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ
làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi ”. Như vậy là, chí hướng tìm
đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với các bậc tiền bối. Rõ
ràng, Người đã sớm nhận thức được “ cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là
súng đạn, của cải, mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói
cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng.
Chỉ
với đôi bàn tay trắng, bằng ý chí “ sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi ”,
chính chủ nghĩa yêu nước đã trở thành hành trang giá trị nhất của người thanh
niên Nguyễn Tất Thành ở thời điểm Người xuống con tàu đô đốc La-tút-xơ
Tơ-rê-vin ngày 5/6/1911 bước vào cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Chính chủ
nghĩa yêu nước cũng là cơ sở, là động lực trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người sau này.
Ra
đi tìm đường cứu nước năm 1911, trong vòng 10 năm tiếp theo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới như Singapo,
Sri Lanka, Ai Cập, Pháp, Angiêri, Tuynidi, Xênêgan, Ghinê, Cônggô, Mỹ, Braxin,
Anh, Tây Ban Nha, Đức, Bỉ, Italia, Thuỵ Sĩ,… Với ý chí kiên cường và lòng yêu
nước nồng nàn, Người sẵn sàng làm mọi thứ nghề lao động chân tay như nấu bếp,
làm vườn, vẽ thuê,…để sống cuộc đời của người lao động, hoà mình vào phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, của các dân tộc
bị áp bức bóc lột ở thuộc địa. Tháng 2-1913, từ nước Anh, Người đã gửi cụ Phan
Châu Trinh (lúc này đang sống ở Pháp) một bài thơ thể hiện quyết tâm cứu nước
của mình: “ Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng – Phải có kiên cường mới gọi
hùng – Vai cứng long lanh ngoài ách tớ – Má đào nóng nảy giới quyền chồng ”.
Tháng 9 – 1919, phóng viên Mỹ Kim Koei Tche đã có cuộc phỏng vấn Người như sau:
“ Hỏi : Anh đến Pháp với mục đích gì? Đáp: Để đòi quyền tự do cho dân An Nam.
Hỏi : Bằng cách nào? Đáp: Bằng cách làm việc hết mình và luôn xông xáo tiến lên
”. Rõ ràng, q ua những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm đó, chủ nghĩa yêu nước
ở Hồ Chí Minh có những biến chuyển mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được
nâng lên thành sự đồng cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ
bị áp bức như dân tộc mình. Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó cũng đã
giúp Người nhận thức rõ hơn, khái quát hơn diện mạo của kẻ thù: không chỉ đối
với thực dân Pháp mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói chung: “ …những người Pháp ở Pháp phần
nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác và vô nhân đạo. Ở đâu
chúng nó cũng thế… Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng
hay da đen cũng không đáng một xu ”.
Bôn
ba tới nhiều nước châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú
ý trước hết đến cuộc cách mạng Mỹ năm 1776 và cuộc cách mạng Pháp năm 1789.
Cuộc cách mạng Mỹ được Người đánh giá là cuộc cách mạng không triệt để và khẳng
định không đi theo hình mẫu của cách mạng đó, vì rằng “ Mỹ tuy rằng cách mệnh
thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính
cách mệnh lần thứ hai…Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến
nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ
để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng
mới được hạnh phúc ”. Nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp năm 1789, Chủ tịch Hồ
Chí Minh rút ra 5 bài học: Phải có tổ chức cách mạng vững chắc; phải lấy liên
minh công nông làm gốc; Phụ nữ và thiếu nhi là lực lượng cách mạng quan trọng;
Dũng khí cách mạng là một lực lượng vô địch; Làm cách mạng thì phải có gan
không sợ hy sinh. Kết luận cuối cùng của Người là nhân dân Việt Nam không thể
đi theo con đường cách mạng tư sản của Pháp và của Mỹ bởi vì “ Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi ”.
Đầu
năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ lúc đó
thường lên tiếng chống lại chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các
thuộc địa theo hướng nhân đạo hoá các chính sách đó, như lời Người lý giải sau
này: “ Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy- (hồi đó
tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) – đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu ”. Tháng 6-1919, lấy tên
Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội Những người yêu nước Việt Nam ở Pháp , Người gửi
tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam viết bằng tiếng Pháp, gồm
8 điểm, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền
bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Mặc dù không đạt được được một yêu cầu nào song
việc gửi bản yêu sách đến một hội nghị quốc tế, sự xuất hiện lần đầu tiên của
Nguyễn Ái Quốc trên vũ đài chính trị tại sào huyệt của chủ nghĩa thực dân và
cùng những nội dung của bản yêu sách đã đánh thức sự thờ ơ của dư luận đối với
vấn đề thuộc địa, với chính sách cai trị hà khắc ở thuộc địa của Pháp nói chung
và thuộc địa Đông Dương, Việt Nam nói riêng. Sự kiện này cũng đánh dấu một bước
tiến trong sự trưởng thành của Nguyễn Ái Quốc sau những khảo nghiệm thực tế.
Bằng những hoạt động sôi nổi trong Đảng Xã hội Pháp, trong phong trào công nhân
Pháp, Người nhanh chóng nắm bắt được thời cuộc và định hướng đúng đắn cho mình,
cho con đường giải phóng dân tộc mình.
Ngày
16 và 17-7-1920, lần đầu tiên ở Pháp, báo Nhân Đạo (L’Humanite), cơ quan của
Đảng Xã hội Pháp công bố tác phẩm quan trọng của Lê-nin: “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Trong văn kiện này,
Lênin phê phán mọi luận điểm sai lầm của những người cầm đầu Quốc tế II về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân
tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản là phải
giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, nhấn
mạnh sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng cần lao
của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Tác phẩm
của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và
tự do cho đồng bào. 9 năm sau ngày rời Tổ quốc, cầm tờ báo ở trang ba đăng văn
kiện của Lê-nin, người thanh niên yêu nước thấy bừng lên một ánh sáng mới. Từng
dòng, từng chữ quý giá hiện ra trước mắt. Văn kiện lịch sử ấy của Lê-nin mở ra
trước mắt Người một chân trời mới rực rỡ và là ngọn đèn soi đường giải phóng
cho đồng bào của Người đang rên xiết dưới ách thực dân. Văn kiện ấy khiến cho
Người xúc động, tin tưởng, vui mừng đến phát khóc lên và dù chỉ ngồi một mình
trong căn buồng nhưng Người vẫn nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: ” Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta! ”.
Chính
chủ nghĩa yêu nước đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với cuộc gặp gỡ kỳ thú đó
với tư tưởng Lênin. Nó tạo ra bước chuyển căn bản của Người – chiến sĩ cách
mạng trẻ tuổi và mở đầu một chuyển biến thực sự trong lịch sử tư tưởng cách
mạng nước ta – “hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh vững bước tới tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại
thành phố Tours. Tại Đại hội này Người đã cùng với những nhà hoạt động chính
trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp như: Macxen Casanh (Marcel Cachin), Pôn
Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant Couturier)… bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại
những người cơ hội. Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế
III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Lúc ấy là
rạng sáng ngày 30-12-1920. Thời khắc đó xuất hiện người cộng sản Việt Nam đầu
tiên là Nguyễn Ái Quốc. Thời khắc đó đánh dấu sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Lê-nin và quyết tâm bước theo
ánh sáng tư tưởng Lê-nin. Cuối cùng Người cũng đã tìm thấy con đường giải phóng
không chỉ phá vỡ xiềng xích cho dân tộc Việt Nam mà còn là niềm hy vọng chung
cho các dân tộc thuộc địa khác trên thế giới.
Vậy
là, từ thời điểm ra đi năm 1911 cho đến năm 1920, là cả một thập kỷ cho một
hành trình tìm kiếm nguồn sáng chân lý cách mạng của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Tất nhiên, chân lý ấy cần phải được vận dụng và kiểm
nghiệm trong điều kiện thực tiễn lịch sử xã hội Việt Nam, còn là một chặng gian
lao phía trước, song niềm cảm thức và trực giác mách bảo Nguyễn Ái Quốc rằng:
đó là một chân lý duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam ” Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin ” và ” Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Sự lựa chọn và hành động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, đã thức tỉnh,
thôi thúc lớp lớp người Việt Nam yêu nước đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tập hợp
được đông đảo quần chúng dưới ngọn cờ cách mạng để làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng Tám và tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi.
Có thể nói, mỗi bước tiến, mỗi thắng lợi của nhân dân ta, của Đảng ta trong
những năm qua “ đều gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng sôi nổi và
đẹp đẽ của Hồ Chủ tịch. Toàn bộ hoạt động của Người cùng với sự nghiệp của nhân
dân ta và của Đảng ta là một thiên anh hùng ca bất diệt của cách mạng Việt Nam
”. Dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng tư tưởng, đường lối cùng với tình
thương yêu bao la của Người để lại cho nhân dân ta vẫn còn sức sống bất diệt.
Những tư tưởng ấy, tình yêu thương ấy vẫn sáng chói và soi đường cho chúng ta
bước tiếp trong công cuộc phát triển phồn vinh và hội nhập quốc tế./.
Nhận xét
Đăng nhận xét