NHẬN
THỨC ĐÚNG BẢN CHẤT CỦA CÁI GỌI LÀ “CÁCH MẠNG SẮC MÀU”
Các cuộc biểu tình, bạo động vũ trang, bạo loạn lật
đổ hay đảo chính ở một số quốc gia thuộc Liên Xô trước đây cũng như
Đông Âu cuối thế kỷ XX và ở Trung Đông, Bắc Phi những năm đầu thế kỷ XXI được
truyền thông phương Tây khoác cho cái tên mĩ miều và đầy tính mị
dân là “cách mạng sắc màu”. Nhưng thực chất những cuộc chính biến
đó là phản cách mạng. Nhận thức đúng vấn đề là nhiệm vụ vừa có tính cấp
bách trước mắt và vừa có tính chiến lược lâu dài.
Những người biểu tình đụng độ với cảnh sát trong cuộc Cách mạng Maidan năm 2014. (Nguồn: The Guardian)
CÁI GỌI LÀ “CÁCH MẠNG SẮC MÀU” THỰC CHẤT LÀ PHẢN
CÁCH MẠNG
Nếu như các nhà lý luận của giai cấp tư sản tự do
cho rằng cách mạng xã hội là một hiện tượng ngẫu nhiên, thì trái lại, chủ nghĩa
Mác - Lênin chỉ ra rằng các cuộc cách mạng là kết quả tất nhiên của sự
phát triển của các xã hội chia thành giai cấp đối kháng. Các cuộc cách mạng
hoàn thành quá trình tiến hóa, quá trình chín muồi dần dần của những điều kiện
của một chế độ xã hội mới trong lòng chế độ xã hội cũ, hoàn thành quá trình
tích lũy dần dần những mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ. Cách mạng giải quyết
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ, dùng bạo lực phá
hủy quan hệ sản xuất quá thời và mở rộng đường phát triền cho lực lượng sản xuất.
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề
chính quyền. Phải trải qua đấu tranh giai cấp quyết liệt mới chuyển được chính
quyền từ giai cấp phản động thống trị, giai cấp kìm hãm sự phát triển của xã hội
sang giai cấp cách mạng. Cách mạng là hình đấu tranh giai cấp cao nhất. Không
nên lẫn lộn cách mạng xã hội với cái gọi là “cách mạng trong cung điện” với những
cuộc đảo chính, tuần hành, biểu tình trên đường phố. v.v. Những cuộc đảo chính
chỉ là dùng bạo lực thay đổi chính phủ, chỉ là những người hay tập đoàn của
cùng một giai cấp thay thế nhau nắm chính quyền, còn đặc điềm cơ bản của cách mạng
xã hội là hoàn toàn biến đổi chế độ, là chuyển chính quyền từ giai cấp này sang
giai cấp khác. Tuy nhiên, không thể gọi tất cả mọi cuộc lật đổ, trong đó một
giai cấp này dùng bạo lực lật đổ một giai cấp khác là cách mạng được. Nếu giai
cấp phản động gây ra một cuộc nổi dậy chống giai cấp tiến bộ, nếu giai cấp phản
động lại chiếm chính quyền, đó không phải là cách mạng nữa, mà là phản cách mạng.
Cách mạng là việc giai cấp tiến bộ lên nắm chính quyền, mở đường cho một sự
phát triển mới của xã hội.
Đối chiếu với những diễn biến và kết quả các cuộc
biểu tình, bạo động vũ trang, bạo loạn lật đổ, đảo chính bất hợp pháp ở một số
quốc gia thuộc Liên Xô trước đây và Đông Âu (vào thập niên cuối
thế kỷ XX) và ở Trung Đông, Bắc Phi trong (những thập niên đầu thế kỷ
XXI) với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin nêu trên cho phép chúng
ta khẳng định, đó không phải một cuộc cách mạng xã hội đúng
nghĩa, mà thực chất là phản cách mạng. Bởi, tính chất của
cách mạng là do những nhiệm vụ xã hội mà nó thực hiện, quyết định. Ví như, nhiệm
vụ của Cách mạng Pháp năm 1789 là thủ tiêu chế độ phong kiến đang kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất và ngăn cản không cho người ta mở đường
cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển trên cơ sở lực lượng sản
xuất ấy. Đó là một cuộc cách mạng tư sản cũng như những cuộc cách mạng
1848 - 1849 trong nhiều nước châu Âu. Còn cách mạng vô sản xã hội chủ
nghĩa khác về căn bản với tất cả những cuộc cách mạng trước. Đây là cuộc cách mạng
vĩ đại nhất chưa từng thấy trong lịch sử vì nó biến đổi đời sống nhân dân
một cách sâu sắc nhất. Chỉ có cách mạng vô sản lập nên chuyên chính của
giai cấp vô sản, giai cấp cách mạng nhất trong lịch sử nhân loại, mới có thể tiêu
diệt mọi hiện tượng người bóc lột người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
vĩ đại là một kiểu mẫu của cách mạng vô sản.
“Cách mạng là tiêu diệt những cái gì xấu, xây dựng
những cái gì tốt. Chúng ta làm cách mạng để tiêu diệt chế độ thực dân, phong
kiến, để xây dựng dân chủ mới” hay “Mục đích của cách mạng là xây dựng
một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, giàu mạnh. Làm cho nhân dân được
hưởng hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung sướng, vẻ vang”. Hồ Chí Minh |
Trong khi đó, cái gọi là “cách mạng sắc màu”
(colour revolution) hay còn được biết đến với những tên gọi như “cách
mạng cam / nhung /hạt dẻ / hoa hồng / hoa tulip...” (ở Trung
Đông, Bắc Phi); hay “cách mạng đường phố” (Maidan ở U-crai-na, ô/dù ở Hồng
Kông); hoặc “cách mạng nghị trường” ở Gru-zi-a, Vê-nê-zu-ê-la... là thuật ngữ
dùng để chỉ các phong trào biểu tình quần chúng (thường là lực lượng thanh niên
cấp tiến có tư tưởng của chủ nghĩa phát xít mới). Đó là các cuộc chính biến do
phương Tây và các lượng lượng thân phương Tây ở chính các quốc gia đó can dự
vào nội bộ của các quốc gia có chủ quyền, đặc biệt là các nước theo chế độ xã hội
chủ nghĩa, thông qua việc thiết kế lực lượng đối lập, dựa vào sức ép dư luận, lấy
con bài dân chủ, nhân quyền với ngòi nổ là vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm đẩy
các nước rơi vào khủng hoảng chính trị trầm trọng, tạo điều kiện cho phe đối lập
lật đổ chính quyền, thiết lập chế độ mới thân phương Tây, đem lại lợi ích chủ yếu
cho giới tài phiệt mà không đem lại sự thay đổi chế độ chính trị một cách triệt
để, mà đa phần chỉ thay đổi liên minh chính trị bên trong hệ thống chính trị hiện
tại. Trên thực tế, chẳng những đại đa số quần chúng không được hưởng bất cứ
thành quả gì từ các cuộc chính biến đó - điều mà những thủ lĩnh của
các cuộc chính biến từng hứa hẹn - mà còn phải chịu thêm cảnh thương vong, đói
nghèo, bệnh tật và mất quyền tự do, dân chủ nhiều hơn so với trước khi nó xảy
ra… Chính vì thế, những cuộc chính biến đó không thể gọi
là cách mạng được.
Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa
của “cách mạng sắc màu” từ hai cách tiếp cận: Thứ nhất, tiếp cận từ
góc độ xung đột lợi ích địa chính trị giữa phương Đông và phương Tây sau chiến
tranh lạnh, “cách mạng sắc màu” là công cụ của phương Tây dùng để củng cố, mở rộng
gia tăng phạm vi ảnh hưởng toàn cầu bằng việc thúc đẩy mô hình chính trị với
các giá trị dân chủ. Thứ hai, nhấn mạnh vào các phong trào đối lập lại
khá lạc quan khi cho rằng “cách mạng màu” là quá trình dân chủ hoá. Họ
cho rằng “cách mạng sắc màu” phản ánh khuynh hướng của phe đối lập nhằm đạt được
sự đột phá về dân chủ trong bầu cử chính trị để phê phán các trường hợp gian lận
trong bầu cử, từ đó lên án những hành động phản dân chủ của liên minh cầm quyền.
Trong khi đó, một số học giả cho rằng, “cách mạng sắc màu” là mưu kế then chốt
nhằm áp đặt trật tự thế giới mới do Mỹ đứng đầu. Đây là một chiến thuật chính
trị che giấu sự mở rộng của NATO và ảnh hưởng của Mỹ đến các vùng biên giới của
Nga, thậm chí cả Trung Quốc. Mục tiêu cơ bản trong chiến lược của Mỹ là bao vây
Nga và Trung Quốc nhằm ngăn chặn sự nổi lên của những thách thức đối với quyền
lực của Mỹ trong khu vực và trên toàn cầu.
Căn cứ vào lý luận và thực tiễn thì tuyệt
nhiên không thể gọi những hoạt động/hành động chính biến nêu
trên là “cách mạng sắc màu” được, mà thực chất đó là
phản cách mạng.
NHỮNG CẢNH BÁO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Trong tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu
thành của chủ nghĩa Mác, đăng trên tạp chí Giáo dục số 3/1913,
V. I. Lênin từng cảnh báo đối với những người cộng sản: “Chừng nào
người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp
khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn
nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ
người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về
chính trị”. Theo đó, nếu chúng ta mất tinh thần cảnh giác cách mạng, mơ hồ
giai cấp khi thừa nhận nó là “cách mạng” với cái tên và tuyên bố của các chính
trị gia cùng giới truyền thông phương Tây về cái gọi là “cách mạng sắc màu” thì
vô hình chung chính chúng ta thừa nhận tính phản động, phản cách mạng của các
cuộc chính biến trên; là cổ xúy và tạo một tiền lệ vô cùng nguy hiểm đối với sự
tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là một trong những nguy cơ kéo
lùi sự phát triển của đất nước ta.
Trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng tấn công
vào các nước xã hội chủ nghĩa hoặc các nước không chịu theo “chiếc gậy chỉ huy”
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thì Việt Nam là trọng điểm chống
phá thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ kết hợp bạo loạn lật đổ với mục tiêu không thay đổi là
xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Chính vì vậy, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII (tháng 1/1994), Đảng ta đã chỉ ra những thách thức, những nguy cơ lớn
đối với sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Những thách thức
là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới…; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa…; nguy cơ về nạn tham nhũng và
tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy
cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau”; Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn
tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực
và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống
phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí…”.
Không phải ngẫu nhiên chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch lựa chọn các nước xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa,
các nước trong “không gian hậu Xôviết” để tiến hành cách chính biến bất hợp
pháp trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Hậu quả nặng nề và kéo dài ở các
nước bị cái gọi là “cách mạng sắc màu” “càn quét và tàn phá” qua
là lời cảnh báo đối với Việt Nam.
Trên thực tế, mặc dù cái gọi là “cách mạng sắc
màu” chưa được các thế lực thù địch thực hiện thành công ở nước ta, nhưng
đã có manh nha với những biểu hiện cụ thể của âm mưu, thủ đoạn này ở Việt Nam
và gây ra những hậu quả nhất định. Những năm vừa qua đã xuất hiện nhiều vụ
việc cho thấy rằng, thế lực thù địch và phản động không ngừng nuôi âm
mưu và sử dụng “chiêu thức” phản cách mạng để tấn công vào sự nghiệp cách
mạng của nước ta. Chúng lợi dụng lòng yêu nước, lợi dụng mạng xã hội, Internet
cùng những hạn chế trong nhận thức, hiểu biết của một bộ phận không nhỏ quần
chúng để xúi giục nhân dân biểu tình. Điển hình như: lấy danh nghĩa
“Hướng về biển, đảo quê hương” để kích động biểu tình, bạo loạn, phá
hoại, bài xích quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc (như vụ phản
đối giàn khoan HD-981 của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam năm 2014 để tiến
hành cái gọi là “cách mạng hoa sen”; vụ Formosa gây ra ô nhiễm môi trường biển
khiến cá chết hàng loạt ở 4 tỉnh miền Trung để thực hiện cái gọi là “cách mạng
cá” năm 2016); lấy danh nghĩa bảo vệ môi trường để thực hiện cái gọi là “cách mạng
cây”; kêu gọi “xuống đường tổng biểu tình” năm 2018 tại 23 tỉnh,
thành phố liên quan đến việc Quốc hội nước ta chuẩn bị thông qua và ban hành Luật
An ninh mạng và Dự thảo Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG HỮU HIỆU
Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng
định: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy
lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an
ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an
ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng
trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa
bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”. Theo đó, để ngăn chặn và triệt
tiêu những nguy cơ của của cái gọi là “cách mạng sắc màu”, chúng ta cần phải “bắt
đầu” từ những yếu tố chủ quan, bao gồm tình hình kinh tế - chính trị - xã
hội nội tại. Trong đó, tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:
Một là, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực
xã hội; chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế; chăm lo cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, giải quyết tốt các
vấn đề xã hội… để củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Muốn ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả -
làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn
lật đổ của các thế lực thù địch, phản động đối với sự nghiệp cách mạng của nước
ta thì phải giữ vững được sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày
càng vững mạnh về mọi mặt. Do đó, việc đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực
xã hội; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực; chống nguy cơ tụt
hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để đảm bảo và thúc đẩy yếu tố
bên trong của đất nước luôn luôn ổn định.
Để giữ được sự ổn định xã hội thì vấn đề mấu chốt
phải giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực. Thực chất làm
cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng củng cố, phát triển trong quá
trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế đồng
nghĩa với tránh nguy cơ đời sống nhân dân lao động suy giảm, dẫn đến lòng
dân hoang mang, mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước.
Hai là, nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, nắm chắc mọi diễn biến không để bị động và bất ngờ.
Chủ động nắm bắt, phát hiện kịp thời những âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng
nước ta có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Yêu cầu đặt ra là phải giáo dục rộng
rãi trong toàn xã hội để mọi người dân, mọi tổ chức chính trị - xã hội đều nhận
thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình” thông qua
cái gọi là “cách mạng sắc màu” của các thế lực phản động. Đảng, Nhà nước
tăng cường chỉ đạo cơ quan tham mưu chuyên trách phối hợp các ngành, các cấp
trong xã hội chú trọng giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh; thông qua các
kênh thông tin đại chúng để nâng cao cảnh giác cách mạng cho mọi tầng lớp nhân
dân. Nghiêm khắc đấu tranh phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh
giác trong một bộ phận nhân dân, học sinh, sinh viên trước âm mưu, thủ đoạn
thâm hiểm trong chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá nước ta của kẻ
thù.
Không ai khác và hơn ai hết, mỗi cá nhân phải có ý
thức tự giác chấp hành pháp luật của Nhà nước về thông tin, tham gia tích
cực đấu tranh chống phao tin đồn nhảm, lưu truyền thông tin xấu và thất thiệt.
Ba là, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa cho toàn dân.
Bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược
của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có
nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
không ngừng từ bỏ âm mưu thôn tính chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Vì vậy, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, mỗi
công dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng. Ý thức bảo vệ Tổ quốc cần được thấm
nhuần sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân mà trọng tâm là thanh niên.
Yêu cầu nội dung giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân phải mang tính toàn diện:
tình yêu quê hương, đất nước; cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống
phá của kẻ thù; thấm nhuần quan điểm, đường lối của Đảng về nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới; tất cả
vì mục tiêu độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Vận dụng các
hình thức biện pháp giáo dục đa dạng nhưng phù hợp với từng đối tượng.
Bốn là, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh
về mọi mặt.
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh là
“thành trì” bảo đảm cho chế độ xã hội luôn ổn định, phát triển. Trước hết,
phải luôn luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Khối
đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là đoàn kết
các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, mọi
giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng mọi miền đất nước; đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng...
Để đạt được sự đoàn kết rộng rãi đó, Đảng và Nhà nước phải nâng cao chất
lượng các chính sách xã hội nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng cho
từng giai tầng; củng cố vững chắc khối liên minh công - nông - trí;
phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự lực tự cường, lòng tự hào của toàn
dân. Đồng thời, Đảng và Nhà nước phải luôn luôn chú trọng xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương ngày càng vững mạnh
về mọi mặt; nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống
của đảng viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp, nhất là ở cơ sở;
thực hiện tốt quy chế và pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, củng cố nâng cao chất lượng,
hiệu quả, nề nếp hoạt động của các tổ chức quần chúng.
Năm là, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh.
Không ngừng chú trọng xây dựng quân đội nhân
dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại (có lực
lượng tiến thẳng lên hiện đại), xây dựng vững mạnh lực lượng dân quân
tự vệ, lực lượng dự bị động viên, lực lượng an ninh nhân dân ở cơ sở... Đây vừa
là lực lượng trực tiếp vừa là một bộ phận của các lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam, do Đảng lãnh đạo, là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền, nhân
dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ. Cùng với lực lượng chính quy có sức chiến đấu cao, phải bảo
đảm vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, phòng thủ ở các địa phương, cơ
sở. Chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng,
lấy chất lượng là chính.
Mỗi địa phương phải chú trọng kết hợp phát động
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang ở
cơ sở. Thực tiễn cho thấy, quần chúng nhân dân là nền tảng của
đất nước, là gốc rễ của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển
của xã hội, nhưng cũng là đối tượng mà các thế lực thù địch, phản
động thường hướng tới để lợi dụng, lôi kéo nhằm thực hiện âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng./.
Nhận xét
Đăng nhận xét