Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975
Đại thắng mùa
Xuân 1975 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi
nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế
kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
Đặc điểm nổi bật của
cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Geneva năm 1954 là đất nước tạm thời chia cắt
làm hai miền với hai chế độ chính trị-xã hội khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn độc
lập, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai
đặt ách thống trị, nhân dân bị kìm kẹp, đàn áp rất tàn bạo. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1-1959), tiếp sau đó là Nghị quyết Đại hội
lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam
là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời
và kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: “Một là, tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành
độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ấy có quan
hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau". Với đường lối
đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã động viên được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc và sức mạnh của thời đại, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, trước hết là
của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là sự
đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào và
Campuchia), tạo nên sức mạnh tổng hợp để từng bước đánh thắng kẻ thù.
Sự lãnh đạo sáng suốt,
đúng đắn của Đảng trong Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 thể hiện những
nội dung chính sau đây:
Một là, Đánh giá
đúng tình hình, nắm vững thời cơ, hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam
chính xác.
Sau
Hiệp định Paris năm 1973, quân Mỹ và chư hầu buộc phải rút khỏi Việt Nam nhưng
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ vẫn tiếp tục. Mỹ sử dụng chính
quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới,
tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, buộc quân và dân ta phải đánh trả để
bảo vệ vùng giải phóng, giữ vững hiện trạng. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
21 (khóa III) chỉ rõ: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực
cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững
đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam
tiến lên”. Phương hướng chủ động tích cực, có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng
của cả nước trong giai đoạn này là luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và
chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi
hành hiệp định để thắng địch. Đồng thời hội nghị xác định: “Chủ động chuẩn bị
sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến
trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”.
Nghị
quyết Trung ương 21 (khóa III) của Đảng đã chỉ đường, dẫn lối cho sự nghiệp
giải phóng miền Nam Việt Nam liên tiếp giành được thắng lợi, cục diện chiến
trường chuyển biến nhanh về chiến lược, tạo bước ngoặt căn bản về tương quan so
sánh giữa lực lượng giữa ta và địch, dẫn tới Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân
1975.
Hội
nghị Bộ Chính trị họp lần thứ nhất từ ngày 30-9-1974 đến 8-10-1974; lần thứ hai
từ ngày 18-12-1974 đến 8-1-1975, trên cơ sở nắm chắc, đánh giá đúng tình hình
thế giới, trong nước, nhất là so sánh lực lượng ta-địch, điểm mạnh và điểm yếu
của chính quyền Sài Gòn sau khi đế quốc Mỹ rút quân khỏi miền Nam và khả năng
của ta… đã hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm
(1975-1976); đồng thời xác định nhiệm vụ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều
chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng
chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến
tới thống nhất Tổ quốc.
Theo
dõi sự phát triển cực kỳ mau lẹ của tình hình, Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy
Trung ương đã có những quyết định kịp thời khi thời cơ mới xuất hiện, chuyển kế
hoạch cơ bản giải phóng miền Nam từ hai năm (1975-1976) lúc đầu, sang kế hoạch
rút xuống còn một năm rồi quyết định kết thúc trước mùa mưa năm 1975. Đảng đã
lãnh đạo quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến
trường miền Nam, đánh tan toàn bộ ngụy quân với số lượng hơn một triệu tên và
bộ máy ngụy quyền Sài Gòn, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam
Việt Nam.
Hai là, Chọn đúng
hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, làm thay đổi hoàn toàn cục diện chiến
tranh, theo hướng có lợi cho ta.
Trong
lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh, việc chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng (nhất là
kinh nghiệm qua Chiến dịch Biên Giới 1950; tiến công chiến lược Đông-Xuân
1953-1954; Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968; tiến công chiến lược
1972...) cho thấy, chọn đúng hướng, mục tiêu chủ yếu của cuộc tiến công chiến
lược sẽ làm thay đổi cục diện chiến trường, hình thành thế và lực mới, tạo ra
bước ngoặt của chiến tranh. Thắng trận mở đầu có ý nghĩa rất quan trọng, tạo ra
khí thế, niềm tin, thúc đẩy sự phát triển của chiến tranh và là đòn đánh mạnh
vào ý chí, tinh thần quân địch, dẫn tới sự suy sụp, tan rã, thất bại của chúng.
Đầu
năm 1975, sau thắng lợi giải phóng tỉnh Phước Long, Bộ Chính trị và Thường vụ
Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng tiến công chính là nam Tây Nguyên, mục
tiêu chủ yếu, trận mở đầu là đánh và giải phóng Buôn Ma Thuột. Quyết định này
của Đảng được hình thành trên cơ sở phân tích khoa học so sánh thế và lực giữa
ta và địch, xu thế phát triển của tình hình trong giai đoạn cuối cuộc chiến
tranh, căn cứ vào sự bố trí lực lượng và âm mưu chiến lược của Mỹ-ngụy trên
chiến trường và kết quả công tác chuẩn bị của ta trong hai năm 1973-1974. Vào
đầu năm 1975, do phán đoán sai lầm kế hoạch của ta, Mỹ-ngụy không thay đổi thế
bố trí chiến lược mạnh ở hai đầu là Trị Thiên (quân khu I của địch) và miền
Đông Nam Bộ (quân khu III của ngụy). Ở Tây Nguyên, nhờ tài năng nghi binh chiến
lược và khả năng giữ bí mật của quân và dân ta, địch mắc sai lầm khi nhận định
nếu ta tấn công Tây Nguyên thì sẽ tấn công từ hướng Bắc xuống, nên đã tập trung
lực lượng vào khu vực phòng thủ chính ở Pleiku và Kon Tum. Buôn Ma Thuột là vị
trí hiểm yếu, địch yếu và phòng thủ sơ hở. Chọn Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột
làm hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc
của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch trong chiến tranh.
Đòn
điểm huyệt Buôn Ma Thuột và chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên làm xuất hiện
nhân tố mới, trực tiếp làm xoay chuyển cục diện chiến trường theo hướng có lợi
cho ta, đưa chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển nhảy vọt. Kể từ đây,
với sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung
ương, việc lựa chọn hướng, mục tiêu chủ yếu trong tất cả các chiến dịch để đi
đến ngày toàn thắng đều chính xác. Ngay khi Chiến dịch Tây Nguyên chưa kết
thúc, Bộ Chính trị đã kịp thời chỉ đạo mở các mũi tiến công vào quân khu I của
địch lúc đó đã bị cô lập, nhằm vào mục tiêu quan trọng là Huế và Đà Nẵng. Điện
của Bộ Chính trị ngày 1-4-1975 chỉ đạo rõ: “Trước mắt, như trước đã định, nay
cần làm nhanh hơn, gấp rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện
chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn Đường số 4 và áp sát Sài Gòn. Đồng
thời, nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông và đông-nam, đánh chiếm
những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía
Long Khánh, Bà Rịa-Vũng Tàu”. Sau khi lực lượng địch ở quân khu I, quân khu II
bị loại khỏi vòng chiến đấu, cùng với những hoạt động của quân và dân ta ở quân
khu III, quân khu IV của địch đã được đẩy mạnh, địch bị tiêu diệt và tan rã
hàng chục vạn quân; trên đà thắng lợi, lực lượng của ta ngày càng mạnh, thế
trận vững chắc... Tình hình đó đã chín muồi để ta mở trận quyết chiến chiến
lược tại Sài Gòn-Gia Định, sào huyệt cuối cùng của địch.
Ba là, Tổ chức và
từng bước đưa cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến đỉnh cao, tạo nên sức
mạnh tổng hợp áp đảo đối phương trong chiến dịch quyết chiến chiến lược, kết
thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong
suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã tổ chức và từng bước đưa
cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến đỉnh cao; thực hiện toàn dân đánh
giặc, không phân biệt tiền tuyến, hậu phương. Điều đó đã động viên và phát huy
cao độ sức mạnh tổng hợp; sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc vừa chiến đấu,
xây dựng, vừa chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam,
kết hợp với sức mạnh của đồng bào và chiến sĩ miền Nam trực tiếp trên tuyến đầu
đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Đảng
ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm về con đường cách mạng miền Nam
phải là con đường cách mạng bạo lực, với hai lực lượng cơ bản: Lực lượng chính
trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và
đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng; đánh địch
bằng ba mũi giáp công: Quân sự, chính trị, binh vận; trên cả ba vùng chiến
lược: Rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; kết hợp chiến tranh du kích
và chiến tranh chính quy, thực hiện đánh địch trên mọi quy mô: Đánh lớn, đánh
vừa, đánh nhỏ của lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân du kích); thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt
địch để giành quyền làm chủ.
Trong
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, cũng như trong từng chiến dịch, ta đã
quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, vận dụng phương pháp tác chiến, hình
thức tác chiến hết sức linh hoạt, táo bạo, sáng tạo, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể nên đã đạt hiệu suất, hiệu quả chiến đấu cao. Chúng ta đã phát
triển lên một bước mới cách đánh truyền thống của chiến tranh nhân dân: Kết hợp
tiến công và nổi dậy; kết hợp, phối hợp tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ
quân; kết hợp cả đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ... Ta đã mở những chiến dịch
tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, quan hệ chặt chẽ với nhau, theo ý
định chiến lược thống nhất: Thực hiện chia cắt, bao vây, phá vỡ hệ thống phòng
thủ chiến lược của địch, tiêu diệt và làm tan rã bộ phận lớn quân địch, kết hợp
với tiến công rộng khắp ở quy mô vừa và nhỏ của lực lượng vũ trang địa phương
và nổi dậy mạnh mẽ giành quyền làm chủ của quần chúng.
Trong
các chiến dịch tiến công, ta đã vận dụng linh hoạt phương pháp tác chiến và các
hình thức, thủ đoạn tác chiến: Tiến công trận địa, bao vây, chia cắt, đột phá
thọc sâu... làm cho địch liên tiếp bị bất ngờ về nhiều mặt, không thể đối phó
như ở Tây Nguyên; khi thì bị bất ngờ về cách đánh như ở Huế, hoặc thời gian
tiến công rất nhanh như ở Đà Nẵng; khi thì bị bất ngờ cả về thời gian, tốc độ
tiến công và quy mô tập trung lực lượng của ta như Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Nhưng trên hết, cả bộ máy chiến tranh của Mỹ-ngụy đều bị bất ngờ khi ta tổ chức
cuộc Tổng tiến công chiến lược. Đối phương cho rằng ta chưa đủ khả năng mở cuộc
Tổng tiến công chiến lược vào năm 1975. Đây là điểm mấu chốt khiến chúng hoàn
toàn bị động về chiến lược, nên thất bại là tất yếu.
Cuộc
Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 là đỉnh cao của sự kết hợp giữa tiến
công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công nhằm đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực
lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất, thể hiện
nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tài thao lược quân sự sắc bén, sáng tạo, táo
bạo mà đúng đắn của Đảng ta. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự của bộ đội chủ
lực và nổi dậy của quần chúng được kết hợp chặt chẽ, hiệu quả trong suốt cuộc
Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Những đòn tiến công quân sự của bộ đội
chủ lực, bằng một loạt trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh thẳng
vào các thành thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự lớn của địch, tiêu diệt,
làm tan rã lực lượng lớn và gây cho chúng hoang mang tột độ đã tạo điều kiện
thuận lợi để hỗ trợ, thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy, đập
tan bộ máy kìm kẹp của địch ở địa phương, để giành quyền làm chủ. Sự nổi dậy
mạnh mẽ của lực lượng quần chúng đông đảo trên nhiều địa bàn từ nông thôn đến
thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo thuận lợi cho bộ đội
chủ lực cả về thế, lực và điều kiện để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của
địch; đồng thời, tạo điều kiện để tập trung lực lượng vào những mục tiêu chủ
yếu của cuộc tổng tiến công chiến lược.
Chiến
dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh
từ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng. Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị phê
chuẩn đề nghị của Bộ chỉ huy Chiến dịch đặt tên chiến dịch tiến công giải phóng
Sài Gòn-Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh, khẳng định đây là “một chiến dịch
tiến công hợp đồng binh chủng quy mô lớn, có kết hợp với nổi dậy của quần chúng
kết thúc chiến tranh”. Năm cánh quân tiến vào Sài Gòn có lực lượng tương đương
5 quân đoàn binh chủng hợp thành, cùng với lực lượng hậu cần phục vụ chiến dịch
hùng hậu 18 vạn người tạo nên một thế trận với sức mạnh áp đảo hoàn toàn, bảo
đảm thắng lợi chắc chắn, nhanh chóng và trọn vẹn. Thành ủy Sài Gòn-Gia Định đã
điều động 1.700 cán bộ vào các quận nội thành và các xã vùng ven đô cùng với
cấp ủy, chính quyền địa phương vận động quần chúng nổi dậy, phối hợp với đòn
tiến công của bộ đội chủ lực. LLVT của thành phố với 2 trung đoàn, 5 tiểu đoàn
bộ binh, đặc công biệt động và 3.500 du kích, tự vệ ráo riết chuẩn bị phương án
chiến đấu phối hợp và dẫn đường cho các binh đoàn chủ lực đánh chiếm các mục
tiêu. Các đoàn thể nhân dân bí mật may cờ, in truyền đơn, viết khẩu hiệu chào
đón bộ đội. Nắm vững tư tưởng chỉ đạo và nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị của Bộ
Chính trị, quân và dân ta đã biểu thị sự nhất trí rất cao trong hành động, muôn
người như một, đập tan mọi sự kháng cự của địch, giành thắng lợi hoàn toàn.
Rõ
ràng là, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân
1975. Tập trung, thống nhất, trách nhiệm, kỷ luật, thần tốc, táo bạo là nét nổi
bật trong sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm giành thắng lợi cuối cùng. Đại thắng
mùa Xuân 1975 mãi mãi là niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân
1975 để lại ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm vẫn còn nguyên giá trị đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Niềm vinh dự, tự hào và
trách nhiệm của chúng ta là tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những kinh
nghiệm đó để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân
dân Việt Nam, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng
lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Nhận xét
Đăng nhận xét