VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG, CỦNG CỐ MỐI QUAN HỆ MẬT THIẾT GIỮA QUÂN ĐỘI
VÀ NHÂN DÂN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Mối quan hệ mật thiết với nhân dân là truyền thống cực
kỳ quý báu, là nền tảng, cội nguồn sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân
Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn, nhắc nhở cán bộ, chiến
sĩ quân đội phải thường xuyên giữ gìn mối quan hệ quân - dân. Trong tình hình
hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa quân đội và
nhân dân vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam là một yêu cầu, nhiệm vụ rất
cần thiết.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa quân đội và nhân dân
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh để lại cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, có gần 50 bài nói, bài phát biểu, huấn thị hoặc
thư căn dặn cán bộ, chiến sĩ quân đội phải đặc biệt quan tâm, coi trọng, chăm
lo, giữ gìn và không ngừng tăng cường, phát triển mối quan hệ giữa quân đội và
nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là mối quan hệ đặc biệt quan trọng, là
nguồn gốc tạo nên sự trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng của quân đội ta. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa quân đội và nhân dân được thể hiện trên
những nội dung cơ bản sau:
Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến
đấu. Đây là quan điểm chỉ rõ cội nguồn sức mạnh của
quân đội ta. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta là quân đội cách mạng, ra
đời, trưởng thành và lớn mạnh đều bắt nguồn từ nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu
đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân
đội cần phải nhận thức sâu sắc rằng, nhân dân là nền tảng, là gốc rễ của quân
đội. Trong dịp kỷ niệm 5 năm Ngày truyền thống vẻ vang của
quân đội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà
chiến đấu”(1). Quân đội muốn vững mạnh thì phải biết dựa vào cái gốc,
cái nền tảng ấy. Người từng chỉ rõ: “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân”(2). Người còn căn dặn cán bộ, chiến sĩ quân đội: “Dân như
nước, quân như cá. Phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh
thắng giặc”(3); “Quân đội sinh trưởng, thắng lợi là nhờ nhân dân ra sức giúp
đỡ. Vì thế, bộ đội rất biết ơn và yêu mến nhân dân”(4).
Quân đội ta phải hiếu với dân. Tư tưởng “hiếu với dân” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc tới trong những lần
nói chuyện với bộ đội. Cách đây hơn 70 năm, vào tháng 8-1948, trên lá cờ Người
tặng cán bộ, giáo viên, học viên Trường Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan
Lục quân 1) có thêu 6 chữ vàng “Trung với nước, hiếu với dân”. Người
luôn căn dặn: Đã là người cán bộ cách mạng, cán bộ quân đội thì dù ở cương vị
nào cũng phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân. “Mình đánh giặc là vì
dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” của dân, mà mình có trách
nhiệm phụng sự nhân dân”(5). Hiếu với dân là phải biết hết lòng vì Tổ quốc, vì
chế độ xã hội chủ nghĩa, vì Đảng ta và vì dân tộc ta.
Quân đội ta phải biết tôn trọng nhân dân. Tôn trọng nhân dân chính là sự kế thừa tư tưởng trọng dân của ông cha ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển tư tưởng này lên tầm cao mới. Người yêu cầu:
“Tất cả các chú, cán bộ cũng như chiến sĩ, đều phải: ... Thương dân, trọng dân
và tốt với dân”(6). Theo Người, “trọng dân” phải được thể hiện ở
những việc làm cụ thể, thiết thực: “Phải
biết trọng nhân dân. Tôn trọng có nhiều cách, không phải ở chỗ chào hỏi kính
thưa có lễ phép mà đủ. Không được phung phí nhân lực vật lực của dân. Phải khôn
khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng là
biết tôn trọng dân”(7). Như vậy, theo Người, cán bộ, chiến sĩ quân đội có thực
sự tôn trọng nhân dân thì nhân dân mới gắn bó chặt chẽ với quân đội và quân đội
mới làm tròn được chức năng là đội quân công tác sắc bén của Đảng và Nhà nước,
mới thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. “Trọng dân” còn có nghĩa là tôn trọng sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, tôn trọng, giúp đỡ các cấp ủy và chính quyền địa phương. Tại Hội
nghị Cán bộ cao cấp toàn quân ngày 20-3-1958, Người nhấn mạnh: “Phải đoàn kết
quân, chính, Đảng. Quân đội phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ,
phải giúp đỡ các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương”(8).
Quân đội ta phải được dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội phải giúp đỡ nhân dân
bất kỳ việc to, việc nhỏ, từ việc giúp nhân dân gặt hái, lấy củi, lấy nước, may
vá, vệ sinh đường làng, ngõ xóm đến những công việc lớn hơn như giúp dân tăng
gia sản xuất, giúp đồng bào trong phong trào bình dân học vụ, dạy chữ quốc ngữ
và những điều vệ sinh thường thức; đồng thời, vận động nhân dân thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Người luôn căn dặn: Bộ đội phải hết
lòng giúp dân, tham gia củng cố hậu phương ta ngày càng vững mạnh. Người còn
chỉ ra những yêu cầu rất cụ thể cho cán bộ, chiến sĩ quân đội khi tiếp xúc với
nhân dân: “3. Không động đến một cái kim, một sợi chỉ của dân. 4. Khi đến đóng,
lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân cho sạch sẽ. 5. Nói năng cử động
phải giữ lễ phép, phải kính người già, yêu trẻ con. 6. Mua bán phải công bình.
7. Mượn cái gì phải trả tử tế. 8. Hỏng cái gì phải bồi thường”(9). Đặc biệt,
trong quan hệ trực tiếp với nhân dân, phải làm thế nào để khi mình chưa đến thì
dân mong, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Cán bộ, chiến sĩ quân đội
còn phải chăm lo bảo vệ, gìn giữ an ninh, trật tự cho nhân dân. Người căn dặn:
“Toàn quân ta phải ra sức học tập chính trị, quân sự và văn hóa; phải thi đua
làm tròn nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bảo vệ bờ biển, bảo vệ thành thị, và giữ
gìn trật tự an ninh cho nhân dân”(10). Nếu tất cả cán bộ, chiến sĩ quân đội đều
quán triệt và làm tốt những điều ấy thì chắc chắn sẽ được dân tin, dân phục,
dân yêu.
Nhờ thấm nhuần và quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa quân đội và nhân dân, hơn 70 năm qua, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội
ta luôn chăm lo xây dựng và không ngừng tăng cường mối quan hệ quân - dân,
làm cho mối quan hệ gắn bó keo sơn này trở thành một truyền thống tốt
đẹp của quân đội ta. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc đã có nhiều tấm gương cán bộ, chiến sĩ, đơn vị quân đội thực hiện tốt mối
quan hệ quân - dân, làm nên hình ảnh cao đẹp của anh “Bộ đội Cụ Hồ” và hình ảnh
này luôn in đậm trong nhân dân - “đi dân nhớ, ở dân thương”. Thời bình, truyền
thống đó tiếp tục dược các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội phát huy trong bảo
vệ, giữ gìn trật tự, an ninh, giữ yên cuộc sống bình yên cho nhân dân; giúp dân
xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, gieo “cái chữ”, đưa khoa học, kỹ thuật
đến với người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; giúp nhân dân phòng,
chống thiên tai, nhất là phòng, chống bão, lụt.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong xây dựng, củng cố mối quan hệ gắn bó, mật thiết quân - dân trong tình
hình hiện nay
Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, khu vực và trong nước, những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế
thị trường, để quân đội ta hoàn thành tốt chức năng là đội quân
công tác và đấu tranh làm thất bại những hoạt động của các thế lực thù địch
bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu thức thâm độc hòng tuyên truyền xuyên tạc,
phủ nhận bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, kích động, chia rẽ mối quan hệ
đoàn kết, gắn bó mật thiết, gắn bó như “cá với nước” giữa quân và dân, việc quán triệt sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa quân đội và nhân dân vào xây dựng, củng cố, phát triển tình đoàn kết quân
- dân càng quan trọng và cấp thiết. Để vận dụng sáng tạo tư tưởng đó của Người,
đòi hỏi cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó trước hết cần thực hiện
tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp
tục đẩy mạnh giáo dục về bản chất, truyền thống vẻ vang của quân đội ta, nhất
là bản chất, truyền thống mối quan hệ đoàn kết quân - dân, gắn bó như “cá
với nước”.
Trước hết, làm tốt công tác giáo dục, quán triệt sâu
sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ giữa
quân đội và nhân dân cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Trong đó, tập trung
làm sâu sắc hơn những quan điểm và nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa quân đội và nhân dân: quân đội ta là quân đội của nhân dân,
là con em, ruột thịt của nhân dân; nhân dân là nền tảng sức mạnh quân đội. Chỉ
có trên nền tảng vững chắc là nhân dân, thì quân đội mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ
vang mà Đảng, Tổ quốc và nhân dân giao phó. Đồng thời, tăng cường giáo dục,
quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ những nội dung cơ bản trong đường lối, quan
điểm của Đảng về công tác dân vận, công tác dân tộc và công tác tôn giáo
trong giai đoạn hiện nay, cũng như những nội dung chủ yếu của Quy chế Dân chủ ở
cơ sở, Pháp lệnh Dân chủ ở xã, phường, thị trấn... Trên cơ sở đó, đẩy mạnh giáo
dục cho cán bộ, chiến sĩ về bản chất, truyền thống vẻ vang của quân đội ta,
nhất là bản chất, truyền thống mối quan hệ đoàn kết quân - dân. Bồi đắp, xây
dựng lòng tự hào, ý thức trách nhiệm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong vun đắp,
giữ gìn, phát huy, phát triển mối quan hệ gắn bó giữa quân và dân trong giai
đoạn hiện nay.
Hai là, tổ
chức thực hiện tốt nội dung công tác dân vận trong tình hình mới.
Trọng tâm của công tác dân vận của quân đội ta hiện
nay là: Tham gia xây dựng địa phương vững mạnh về chính trị, phát triển về kinh
tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, góp phần thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững và tăng cường mối
quan hệ đoàn kết quân - dân, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”
trong thời kỳ mới, góp phần giáo dục, nâng cao ý thức “vì nhân dân phục vụ” cho
cán bộ, chiến sĩ. Theo đó, công tác dân vận của quân đội cần hướng mạnh về cơ
sở, quan tâm đến những vấn đề thiết thực trong đời sống nhân dân, nhằm củng cố
vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, quân đội, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa quân đội và nhân
dân. Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo phong trào cách mạng rộng lớn để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục đẩy mạnh
thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, nhất là
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi,
vùng đồng bào theo tôn giáo, về mọi mặt của đời sống xã hội trong công cuộc đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng; về vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa, tầm quan
trọng của công tác dân vận. Khi tiến hành công tác dân vận, phải thường xuyên
đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân sao cho dễ hiểu,
dễ nhớ, dễ thực hiện; giúp nhân dân thấy rõ quyền lợi, nghĩa vụ công dân và
quyền làm chủ trực tiếp theo đúng quy định của pháp luật. Thường xuyên sâu sát
cơ sở, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, phản ánh của nhân
dân...
Ba là, nâng
cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ dân vận ở cơ sở.
Thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ
dân vận phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”(11),
luôn “gần dân, học dân, nghe theo dân”(12) và phương châm “Chân thành,
tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, hiệu quả” trong tiến hành công tác dân
vận. Cần phải đổi mới mạnh mẽ về nội dung, hình thức, phương pháp dân vận để
bảo đảm mỗi cán bộ, chiến sĩ vừa là một quân nhân, một công dân
gương mẫu, vừa là một cán bộ “dân vận khéo” hết lòng vì dân, vì nước. Đặc biệt,
coi trọng và tập trung dân vận ở những địa bàn trọng yếu vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo, những vùng kinh tế khó
khăn. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo những nội dung, biện pháp trong công tác dân
vận, phù hợp với đặc điểm tình hình, điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa
phương. Tích cực, chủ động tổ chức bồi dưỡng kiến thức, năng lực, kinh nghiệm,
phương pháp, tác phong công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trực tiếp
làm công tác dân vận. Phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ chính ủy, chính
trị viên, cán bộ chính trị, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ dân vận của đơn vị. Chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ dân vận là con em
đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo và đội ngũ cán bộ làm
công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, địa bàn trọng
điểm về quốc phòng - an ninh.
Bốn là, tích
cực, chủ động thực hiện chương trình phối hợp hoạt động giữa các đơn vị quân
đội với các tổ chức đoàn thể nhân dân, chính quyền địa phương.
Thông qua công tác dân vận, các đơn vị tích cực giúp
đỡ chính quyền nhân dân địa phương giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội; luôn là lực lượng đi đầu ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất, sát cánh
cùng nhân dân trong phòng, chống bão, lũ, thiên tai, xóa đói, giảm nghèo, xây
dựng, phát triển kinh tế, góp phần ổn định đời sống của nhân dân. Các đơn vị
quân đội đóng quân làm nhiệm vụ trên các địa bàn phải xây dựng và duy trì
thường xuyên chế độ nắm tình hình thực hiện mối quan hệ đoàn kết quân - dân,
chủ động phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch trên
địa bàn, có kế hoạch hoạt động phù hợp và xử lý kịp thời những tình huống xảy
ra. Thường xuyên thực hiện tự phê bình và lắng nghe ý kiến phê bình của cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể nhân dân và nhân dân địa phương về thực hiện mối quan hệ
đoàn kết giữa đơn vị và nhân dân địa phương; định kỳ thông báo tình hình, rút
kinh nghiệm trong công tác phối hợp hoạt động giữa địa phương và đơn vị. Cùng
với địa phương tổ chức tốt sơ kết, tổng kết các hoạt động quân đội tham gia xây
dựng cơ sở chính trị ở địa phương và địa phương tham gia xây dựng quân đội, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng mối quan hệ đoàn
kết quân - dân trong thời kỳ mới, góp phần thực hiện có hiệu quả chính sách hậu
phương quân đội. Đồng thời, tiếp tục phối hợp thực hiện tốt các cuộc vận động
lớn, như “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư”,...
Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân
đội ta cho thấy, chỉ có thường xuyên học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ đoàn kết quân - dân thì mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội mới có
phương hướng, nội dung, phương pháp công tác dân vận đúng đắn. Đó chính là yêu
cầu không thể thiếu trong quá trình xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho quân đội thực hiện tốt nhiệm vụ,
chức năng đội quân công tác trong tình hình hiện nay, góp phần xây dựng “thế
trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện
thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
----------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 264
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5,
tr. 502
(3), (4), (5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7,
tr. 76, 334, 501
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6,
tr. 458
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.
11, tr. 367
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5,
tr. 135
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.
10, tr. 324
(11), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.
6, tr. 233 - 234, 370
-ST-
-G/2/25-
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 502
(3), (4), (5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 76, 334, 501
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 458
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 367
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 135
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 324
(11), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 233 - 234, 370
Nhận xét
Đăng nhận xét