“Phủ bụi” vào lịch sử là mắc trọng tội với thế hệ cha ông
Để tiếng vọng đó có ý nghĩa, giá trị với hiện tại và tương lai,
đòi hòi thế hệ đi sau không chỉ có thái độ chuẩn mực, phương pháp khoa học khi
nhận định, đánh giá về các sự kiện, vấn đề của lịch sử, mà cần có ý thức thận
trọng khi phát ngôn, diễn giải về lịch sử.
Thời gian qua, không
khó để nhận diện những thái độ hạ thấp, “phủ bụi” vào lịch sử. Ví như có người
ngộ nhận khi cho rằng, “Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam chỉ cần “trung với
nước, hiếu với dân” là đủ, là đúng với tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ ra"(!). Vì khi đưa ra lý do này, họ viện cớ rằng, 6 chữ “trung với
nước, hiếu với dân” thêu trên lá cờ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng cán bộ,
giáo viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1) trong
ngày khai giảng khóa I (26-5-1946) cũng là lời Bác nhắc nhở quân đội nói
chung”. Nhưng có một sự thật lịch sử cần phải nhắc lại, đó là trong dịp kỷ niệm
20 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam 22-12-1964, Bác Hồ đã khẳng định: “Quân đội
ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Vì vậy, trung thành với Tổ quốc,
với Đảng, với nhân dân không chỉ thể hiện, phản ánh bản chất sự thật lịch sử ra
đời, trưởng thành, phát triển của QĐND Việt Nam, mà còn là một trong những cội
nguồn và động lực lịch sử làm nên những chiến công hiển hách của Quân đội ta,
một quân đội cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, rèn luyện.
Cách đây chưa lâu, dư
luận từng xôn xao trước việc một số nhà nghiên cứu từng đề xuất bỏ cách gọi
“ngụy quân”, “ngụy quyền” của chế độ Việt Nam cộng hòa. Nhân cơ hội đó, một số
người a dua cho rằng, “việc công nhận Việt Nam cộng hòa như một chính quyền độc
lập là một bước tiến quan trọng nhằm hàn gắn những vết thương của người Việt
sau chiến tranh”(!). Nhìn nhận như vậy là chưa khách quan, chưa đúng với
sự thật lịch sử. Vì thực tế, “ngụy quân”, “ngụy quyền” tuy vẫn mang dòng máu đỏ
da vàng của người Việt, song lực lượng và chế độ này ra đời không đại diện cho
tinh thần dân tộc chân chính, đi ngược lại lịch sử phát triển của dân tộc Việt
Nam và đó chỉ là lực lượng tay sai, chế độ bù nhìn cho các thế lực ngoại bang
xâm lược, giày xéo giang sơn bờ cõi Việt. Do không mang tính chính danh nên họ
không đủ tư cách để đứng ngang hàng với QĐND Việt Nam và chế độ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa-một quân đội cách mạng và một chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Đó là một sự thật lịch sử không thể xuyên tạc.
Chiến tranh là nỗi ám
ảnh ghê ghớm nhất của con người. Dân tộc Việt Nam luôn mang khát vọng “đời ta
thích hoa hồng”, nhưng “kẻ thù buộc ta ôm cây súng”. Lấy chiến tranh chính
nghĩa để kiên quyết chống lại chiến tranh phi nghĩa là đòi hỏi tất yếu của lịch
sử dân tộc ta trong thế kỷ 20. Tuy vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, Đảng, Nhà
nước ta chủ trương “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, tích cực thu hẹp bất
đồng, tăng cường đối thoại và mở rộng vòng tay chào đón những người từng ở
“phía bên kia chiến tuyến” hướng về Tổ quốc, qua đó nhằm củng cố, phát huy tinh
thần đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước.
Cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc đã lùi xa hơn 42 năm. Chúng ta không bao giờ có ý khoét sâu vào
nỗi đau của các thân nhân có con em hy sinh, tử nạn trong cuộc chiến tranh này,
nhưng nói thế không đồng nghĩa với việc xóa nhòa sự thật lịch sử của cuộc kháng
chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Vì từng có ý kiến cho rằng, “chiến
tranh đã thuộc về quá khứ thì cho nó nằm yên một chỗ, không nên khơi gợi lại
làm gì vì làm như vậy dễ tổn thương đến những người tham gia cuộc chiến, gây
bất lợi cho vấn đề hòa giải dân tộc trong tình hình hiện nay”(!). Ý kiến này
mới thoạt nghe tưởng như không có gì đáng nói, nhưng thực chất đây là sự xuyên
tạc bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc; đánh đồng đối
tượng tham gia cuộc chiến. Bởi sự thật lịch sử đã chứng minh rằng, Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam đại diện cho lực lượng yêu nước tiến bộ, yêu hòa bình
của dân tộc Việt Nam nên đã chiến đấu anh dũng, quật cường để mang lại thống
nhất, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân; còn Quân lực Việt Nam
cộng hòa chỉ là lực lượng tay sai, là “lính đánh thuê” cho một thể chế chính
trị không có chính danh, không được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Vì
vậy, sự thất bại, sụp đổ của lực lượng, chế độ mang bản chất “ngụy” ấy là tất
yếu khách quan và là sự thật lịch sử không thể chối cãi.
Khi muốn xem xét, đánh
giá những sự kiện, vấn đề diễn ra trong quá khứ, nhất là những sự kiện, vấn đề
ấy liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc, liên quan đến lịch sử chiến đấu đau
thương mà hào hùng của cả một quân đội cách mạng và một cộng đồng dân tộc vì
phẩm giá, lương tâm của thời đại thì không được phép hời hợt, phiến diện, lại
càng không được phép đánh tráo khái niệm theo kiểu “mập mờ đánh lận con đen”.
Những trang sử vẻ vang
về QĐND Việt Nam, về dân tộc Việt Nam anh hùng trong hai cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc sẽ mãi đồng hành, trường tồn cùng lịch sử nước ta. Bởi đó là
những trang sử được viết nên bởi những tấm lòng trung kiên, cao thượng của cả
một thế hệ cha ông đã tự nguyện cống hiến, xả thân hết mình vì hòa bình, độc
lập, tự do cho Tổ quốc. Nên nhớ rằng, để non sông nước Việt nối liền một dải
như hôm nay, để hơn 93 triệu người dân Việt đang hưởng cuộc sống bình yên như
hôm nay, đã có gần 1,2 triệu người con ưu tú của Tổ quốc mãi mãi không trở về,
gần 825.000 người đã để lại một phần máu thịt của mình trên chiến trường. Đó là
chưa kể hơn 312.000 bộ đội, người tham gia kháng chiến bị phơi nhiễm chất độc
hóa học mà đến nay không chỉ bản thân họ, mà nhiều con cháu họ vẫn còn chịu
đựng bao nỗi đau dai dẳng từ cuộc chiến tranh phi nghĩa do đế quốc Mỹ và ngụy
quân, ngụy quyền gây ra. Đó cũng là một sự thật lịch sử không được phép lãng
quên.
Trong đạo lý truyền
thống người Việt, bất hiếu với cha mẹ là tội lỗi nặng nhất; vong ân bội nghĩa
với thế hệ tiền nhân đã vun đắp, tạo dựng cho cuộc sống hiện tại của mình là
“cạn tàu ráo máng”; vô ơn với tổ tiên, cội nguồn là kẻ chẳng ra gì, nếu không
muốn nói là hèn mạt, đê tiện. Thế nên, với ai đó còn có biểu hiện quay lưng lại
quá khứ, phủ nhận lịch sử, xuyên tạc thành quả cách mạng giải phóng dân tộc đã
phải đổi bằng xương máu của hàng triệu con người, không chỉ đi ngược lại với số
đông, làm tổn thương đến chiều hướng phát triển chân chính của lịch sử; mà còn
làm vẩn đục những giá trị cao đẹp của lịch sử Việt Nam. Như một nhà sử học đã
ví von hình ảnh mà rất chí lý rằng: Khi ai đó cố tình lãng quên quá khứ, “phủ
bụi” vào lịch sử, tự họ đang bôi nhọ vào chính gương mặt người đã sinh ra mình.
Nhận xét
Đăng nhận xét