Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng...”
Thời gian càng lùi xa, giá
trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm "Đạo đức cách mạng" càng được
các thế hệ cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) và nhân dân ta nhận thức đầy đủ, sâu sắc
hơn, càng trở nên thấm thía hơn khi vận dụng vào thực tiễn, đặc biệt trong công
tác xây dựng Đảng về đạo đức, gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng, quyết tâm làm
cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, "Đảng là đạo đức, là văn
minh", như Người hằng mong muốn.
“Đạo đức cách mạng” là
một tác phẩm lý luận và tổng kết thực tiễn đặc sắc, có tầm tư tưởng chiến lược
đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đối với xây dựng Đảng cách
mạng chân chính trong điều kiện Đảng cầm quyền. Cách mạng chuyển sang một thời
kỳ phát triển mới, nhiều yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra đòi hỏi mỗi CB,
ĐV phải ra sức trau dồi đạo đức cách mạng, kiên quyết đánh bại chủ nghĩa
cá nhân. Toàn bộ tác phẩm “Đạo đức cách mạng” của Người thấm nhuần sâu sắc một
triết lý nhân sinh và hành động của người cách mạng: “Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang".
Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh, đạo đức cách mạng cần phải được rèn luyện, tu dưỡng
không chỉ trong học tập ở trường lớp mà còn trong mọi hoạt động cách
mạng. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng, từ thời kỳ hoạt động
bí mật, thời kỳ khởi nghĩa, thời kỳ kháng chiến và trong công việc
xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và đấu tranh
thống nhất nước nhà, đều là những trường học rất tốt cho chúng ta
rèn luyện đạo đức cách mạng. Ở đây đã bao hàm sự thống nhất giữa
học và hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, đó là con đường,
phương thức rèn luyện đạo đức cách mạng.
Người nêu lên vai trò, tác dụng và những biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng và chứng thực điều đó qua những tấm gương chói lọi của những chiến sĩ cộng sản thế hệ tiền bối đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng, của cách mạng. “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”.
Người nêu lên vai trò, tác dụng và những biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng và chứng thực điều đó qua những tấm gương chói lọi của những chiến sĩ cộng sản thế hệ tiền bối đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng, của cách mạng. “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”.
Theo Bác, đối với
người cách mạng và sự nghiệp cách mạng, đạo đức cách mạng cần
thiết cả khi gặp khó khăn, cả khi gặp thuận lợi và thành công. Có
đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. “Vì lợi ích chung của Đảng, của
cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người, mà không
ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần,
thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là
biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”.
Một biểu hiện cao quý
khác của đạo đức cách mạng là khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn
cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo,
không hủ hóa”.
Người có đạo đức là
người thể hiện đúng các đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính, trung thực,
khiêm tốn, nêu cao trách nhiệm, vị tha chứ không vị kỷ, lo cống hiến
chứ không đòi hưởng thụ, có ý chí, nghị lực, bản lĩnh để vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, nhất là vượt lên chính mình, chiến thắng
chủ nghĩa cá nhân ngay trong bản thân mình. Đó là đạo đức, nhân cách
của người mà “nghèo khó không chuyển lay, giàu sang không quyến rũ, uy
vũ không khuất phục”. Chỉ như thế mới xứng đáng là người cách mạng
và đóng góp vào sự thành công của cách mạng.
Trong tác phẩm của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát hóa, nêu bật yêu cầu của đạo
đức cách mạng là “suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, coi đây
là điều chủ chốt nhất”. Đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung
thành với Đảng, với nhân dân”. Người cũng đồng thời chỉ rõ, đạo đức
cách mạng ấy chính là đạo đức của Đảng, thấm nhuần sâu sắc bản
chất giai cấp công nhân và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đạo đức
cách mạng là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết
sức trung thành phục vụ giai cấp công nhân và người dân lao động. Cho
nên, “tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”.
Trong tác phẩm “Đạo đức
cách mạng”, sau khi làm rõ sự cần thiết, tầm quan trọng và những biểu
hiện cao quý của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chỉ
ra những yếu kém của một số CB, ĐV, như không chịu khó học tập lý
luận và ngại khó, ngại khổ trong rèn luyện thực tiễn, sa vào chủ
nghĩa cá nhân với mọi biểu hiện, dưới mọi hình thức; nghiêm khắc phê
phán thực trạng đó, nghiêm túc đòi hỏi mỗi người phải tự phê bình
và sửa chữa, mỗi tổ chức đảng phải chú trọng giáo dục, huấn luyện
và kiểm tra, giúp các đồng chí của mình tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng” năm 1958, là thời điểm miền Bắc
đang ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế, thực
hiện kế hoạch ba năm để phát triển sản xuất, bắt đầu thực hiện chủ
trương hợp tác hóa nông nghiệp, kêu gọi bà con nông dân hăng hái vào
tổ đổi công và hợp tác xã. Đó là những bước đi đầu tiên để đưa
miền Bắc tiến dần lên CNXH, làm hậu thuẫn cho cách mạng giải phóng
dân tộc ở miền Nam và hết lòng hết sức chi viện cho cách mạng ở
miền Nam. Tình hình ấy đòi hỏi CB, ĐV phải ra sức nâng cao đạo
đức cách mạng, tiếp tục phấn đấu hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp
chung của Đảng, của dân tộc. Người chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng của
người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm
đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần
chúng”.
Người đòi hỏi mọi đảng
viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng,
phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân. Không rửa gột
sạch chủ nghĩa cá nhân thì những đảng viên mắc vào căn bệnh này sẽ
dần dần xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của
Đảng… “Những người như thế, sẽ bị quần chúng bỏ rơi, quần chúng
không tin, không phục, càng không yêu họ”. Nhận xét, đánh giá, phê phán
xác đáng này của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và tình trạng suy
thoái do chủ nghĩa cá nhân gây ra, cho đến nay vẫn không hề mất đi tính
thời sự, tính cảnh báo đối với từng CB, ĐV, cho toàn Đảng khi đang
phải đối mặt với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong tác phẩm “Đạo
đức cách mạng”, Hồ Chí Minh cũng khẳng định tầm quan trọng của việc
học tập lý luận Mác-Lênin đối với việc trau dồi, rèn luyện đạo đức
cách mạng của CB, ĐV. Người có những chỉ dẫn cực kỳ sâu sắc về khoa
học và đạo đức. Theo Người, có học tập lý luận Mác-Lênin mới củng
cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu
biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao
phó cho mình.
Tác phẩm “Đạo đức
cách mạng” của Hồ Chí Minh, với điểm nhấn là đạo đức của Đảng,
của mỗi CB, ĐV có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với
xây dựng Đảng về đạo đức, có ý nghĩa chỉ đạo to lớn đối với Đảng
ta hiện nay trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quyết tâm làm cho Đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh. Để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của
sự nghiệp cách mạng, theo Hồ Chí Minh, “tất cả đảng viên, đoàn viên,
tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời
phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người
cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp,
nó bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân”.
Kết luận tác phẩm,
Người nêu lên một nhận định mà Người rút ra từ tổng kết thực tiễn
hoạt động của Đảng, từ sự trải nghiệm trực tiếp của bản thân trong
trường học cuộc đời, trong tranh đấu hy sinh vì nền độc lập tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Dù diễn đạt rất dung dị,
nhưng luận điểm của Người hết sức sâu sắc, có tầm kinh điển, làm nên
giá trị bền vững, hiện đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư
tưởng về đạo đức của Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển
và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
Người nêu lên một vấn
đề có tính quy luật trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng của CB,
ĐV, cũng là xây dựng đạo đức cách mạng trong Đảng, nhất là khi Đảng
đã cầm quyền. Người có một niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của
cuộc đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng,
làm cho Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh. Người cũng đề ra những
biện pháp, giải pháp quan trọng, thiết thực và nhất quán về xây
dựng đạo đức cách mạng trong Đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh công
tác giáo dục, nâng cao nhận thức và trình độ, đồng thời phải công
phu bền bỉ rèn luyện CB, ĐV trong thực tiễn, đề cao tự phê bình
và phê bình, đề cao trách nhiệm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng, trong Nhà nước, nhất là phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng,
lắng nghe ý kiến phê bình của nhân dân và quyết tâm sửa chữa cho bằng
được, để không phụ lòng tin của nhân dân.
Những tác phẩm mà
Người viết vào những năm cuối đời, đặc biệt là “Di chúc” (1965-1969)
và “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (3-2-1969)
càng thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Người về đạo đức trong Đảng,
đạo đức của CB, ĐV. Người chỉ rõ, “phải ra sức tăng cường giáo dục
toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách
của Đảng, về nhiệm vụ, đạo đức của người đảng viên”. Người đòi
hỏi, phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng,
chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc, kỷ luật Đảng phải
nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ… Hiện nay, đó cũng
là những việc làm hết sức cần thiết đối với Đảng và với mỗi CB,
ĐV chúng ta.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc thực hành nêu gương, “một tấm gương
sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Lãnh
đạo bằng sự gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất. Toàn Đảng ta đang
ra sức thực hiện những chỉ dẫn đó của Người. Hội nghị Trung ương 8,
khóa XII, đã quy định trách nhiệm nêu gương của CB, ĐV, trước hết là
Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương. Điều đó càng cho thấy giá trị và ý nghĩa to lớn, sức sống
bền bỉ của Tư tưởng-Đạo đức-Phong cách Hồ Chí Minh, qua tác phẩm
“Đạo đức cách mạng” của Người.
Nhận xét
Đăng nhận xét