Không thể đánh đồng quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số
Những năm qua, thực hiện chiến lược “diễn biến
hòa bình”, một trong những thủ đoạn thâm hiểm được các thế lực thù địch triệt
để lợi dụng là "quyền dân tộc tự quyết” hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Quyền tự quyết dân tộc dưới góc nhìn luật pháp quốc tế
Xét trên bình diện quốc tế, quyền dân tộc tự quyết là quyền của mỗi
dân tộc trong việc thiết lập chế độ chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Trong Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ), dân
tộc tự quyết được coi là nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các
dân tộc. Hiến chương khẳng định: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân
tộc trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc”; đó là
quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền và có quyền tự định đoạt vận
mệnh của mình.
Ngày 14-12-1960, Đại hội đồng LHQ ban hành Nghị quyết số 1514 (XV) thông
qua Tuyên bố về “Trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa”; tại
Điều 2, nghị quyết chỉ rõ: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết, trong đó
có quyền thiết lập chế độ chính trị và thực hiện sự phát triển kinh tế-xã
hội và văn hóa của mình”. Điều này, tiếp tục được khẳng định tại Điều 1, Công
ước Quốc tế về các quyền kinh tế-xã hội và văn hóa năm 1966: “Mọi dân tộc
đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể
chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế-xã hội và văn hóa”.
Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc của luật quốc tế của LHQ cũng nhấn
mạnh: “Việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập vào
nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó, cũng như việc thiết lập
bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thức thể
hiện quyền dân tộc tự quyết” và “mỗi quốc gia đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền
này, phù hợp với Hiến chương LHQ”.
Nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau: Được thành lập quốc
gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang (hoặc
đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện; tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh
tế-xã hội; tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;
quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh
vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp
đỡ về quân sự; tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch
sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý. Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân
tộc đều được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng. Như vậy, “quyền dân
tộc tự quyết” được hiểu là việc một quốc gia-dân tộc hoàn toàn tự do trong tiến
hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường
lối phát triển đất nước.
Hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số
Khái niệm “quyền dân tộc thiểu số” được chính thức ghi nhận trong hai Công
ước quốc tế là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của LHQ (UDHR) năm
1948: “Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự do không có bất
kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn
giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội” (Điều 2) và Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 ghi: “Tại những nước có nhiều nhóm dân tộc
thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá nhân thuộc các dân
tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của
cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền được thụ hưởng nền văn hóa riêng,
quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc quyền được sử dụng tiếng
nói riêng của họ” (Điều 3). Đây là hai văn kiện pháp lý quốc tế nền tảng, ghi
nhận các quyền pháp lý cơ bản của con người về dân sự, chính trị mà quyền dân
tộc thiểu số được coi là quyền cơ bản trong nhóm các quyền dân sự, chính trị
đó. Điều đó có nghĩa là người dân tộc thiểu số có đầy đủ các quyền về dân sự,
chính trị, kinh tế-xã hội, văn hóa như những người thuộc dân tộc đa số
trong xã hội, hoàn toàn bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số tuy có mối quan hệ
nhưng nội hàm của chúng hoàn toàn khác nhau. Đối với quyền của dân tộc thiểu số,
chủ thể hưởng thụ quyền là các dân tộc thiểu số trong một quốc gia. Quốc gia đó
có trách nhiệm bảo đảm cho các dân tộc thiểu số trong quốc gia mình được hưởng
thụ quyền dựa trên điều kiện đặc thù của mình. Còn chủ thể quyền dân tộc
tự quyết là quốc gia-dân tộc chứ không phải là một dân tộc thiểu số trong quốc
gia-dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không cho phép một dân tộc thiểu số ở một
quốc gia được ly khai, được thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được
quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó. Trong mỗi quốc gia có
nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, tất cả các dân tộc này cùng hợp thành
một dân tộc chung nhất, đồng nghĩa với nhân dân và mang tên gọi của đất nước
mình.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,
đoàn kết, hòa thuận trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán mục
tiêu bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền dân tộc tự quyết của
nhân dân Việt Nam theo luật pháp quốc tế. Điều 5, Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ
quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn
bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp
của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện
để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”; đồng thời nhấn
mạnh: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống
lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11). Nội dung này đã được
thể hiện trong các văn bản pháp luật khác, như: Luật Quốc tịch năm 2008; Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015, Bộ luật Hình sự
(sửa đổi) năm 2015... Ở Việt Nam, chỉ có khái niệm quyền con người, quyền công
dân; đó là quyền của tất cả nhân dân Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc
thiểu số hay đa số. Quyền con người thuộc mọi dân tộc thống nhất giữa quyền
cá nhân và quyền tập thể cộng đồng dân tộc được đặt chung trong quyền
của quốc gia-dân tộc.
Làm thất bại những âm mưu lợi dụng, chống phá
Trong những năm qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng quyền dân tộc
tự quyết để đánh tráo và đồng nhất khái niệm quyền dân tộc tự quyết là quyền
của quốc gia-dân tộc với quyền của các dân tộc thiểu số để kích động đồng bào
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đứng lên đòi “quyền dân tộc tự quyết”. Chúng ra
sức truyền bá, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; chia rẽ khối đại đoàn kết
các dân tộc ở Việt Nam; kích động các dân tộc chống lại chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước; gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm
điều kiện trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác
kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các dân
tộc thiểu số ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ
của Việt Nam. Chúng còn tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự
quyết” để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối
Nhà nước Việt Nam từ bên trong. Lợi dụng các vấn đề về lịch sử, đất đai, những
sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; lợi dụng cuộc
sống khó khăn của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số để vu cáo Nhà nước
Việt Nam "phân biệt đối xử, đàn áp người dân tộc thiểu số ", ép người
dân tộc thiểu số phải “bỏ đạo, bỏ văn hoá dân tộc” để hoà nhập với “cuộc sống
văn minh” của người Việt… để kích động, lôi kéo người dân tộc thiểu số biểu
tình, bạo loạn đòi “quyền dân tộc tự quyết, tự quản”.
Chúng còn tìm cách mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc vượt
biên trái phép, gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ cho bên ngoài can
thiệp. Chúng vận động các tổ chức quốc tế vào các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nam Bộ nắm tình hình rồi xuyên tạc thực tế, vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp
người dân tộc thiểu số, vi phạm dân chủ, nhân quyền, qua đó, hòng gây sức ép
yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải trao quyền “dân tộc tự quyết” cho người dân tộc
thiểu số. Chúng kích động đồng bào các dân tộc thiểu số trong nước đòi quyền
dân tộc tự quyết, thành lập “Nhà nước Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc
Chămpa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... qua đó nhằm hình thành các
tổ chức đối lập với Đảng, Nhà nước Việt Nam. Bên ngoài, các tổ chức phản động
lưu vong, như: "Hội người Mông thế giới", "Hội người Thượng
Đề-ga", "Hội những người miền núi", "Nhà nước Đề-ga độc
lập"… tổ chức biểu tình ủng hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực
hơn.
Để phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
hoạt động lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để chống phá Việt Nam, cần tăng cường
tuyên truyền để xã hội hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết theo luật pháp quốc
tế và pháp luật Việt Nam. Không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; mở rộng, đa
dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tôn giáo; chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân
tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Đề cao
tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các dân tộc thiểu số
không trái với lợi ích chung của đất nước. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các
chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa; tiếp tục bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản
sắc của các dân tộc. Làm tốt công tác nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện,
đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng dân tộc, quyền dân tộc tự quyết
để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá cách mạng. Giải quyết triệt
để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, bức xúc trong đồng bào dân tộc
thiểu số trên cơ sở pháp luật.
Nhận xét
Đăng nhận xét