Lòng yêu nước và bản lĩnh Việt Nam
Trong lịch sử dựng nước
và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua những chặng đường đầy gian lao thử thách,
nhưng vẫn trường tồn và phát triển bởi đã rèn đúc nên bản lĩnh rất vững vàng,
mang đậm tính cách và khí phách của dân tộc, gắn liền với một triết lý nhân
sinh mang tính nhân văn sâu sắc. Trong đó, lòng yêu nước là bậc thang cao nhất,
là yếu tố cốt lõi và chi phối đời sống tinh thần của dân tộc.
Theo dòng lịch sử, lòng yêu nước của dân tộc ta được định hướng và quy tụ
dưới những ngọn cờ tư tưởng tiến bộ, gắn với sự dẫn dắt, chèo lái của những
người lãnh đạo đất nước anh minh là những nhà tư tưởng lớn, đồng thời là nhà
chính trị - quân sự kiệt xuất. Từ đó, lòng yêu nước truyền thống đã phát triển
thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, có sức sống mãnh liệt và luôn tỏa sáng; là
động lực tinh thần chủ yếu tạo nên tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của các thế hệ
người Việt Nam, sức mạnh to lớn của dân tộc.
Trên thế giới, hiếm có một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam liên tục trải
qua những cuộc chiến tranh điển hình về tính chất ác liệt và sự gian khổ hy
sinh; phải đương đầu với các thế lực xâm lược hung bạo và hiếu chiến, có tiềm
lực kinh tế, quân sự mạnh hơn gấp nhiều lần. Song, với lòng yêu nước nồng nàn,
dân tộc Việt Nam đã kiên cường đấu tranh giữ nước, bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc, không để bị đồng hóa. Đây là một điều kỳ diệu trong lịch sử nhân loại. Khi
chủ nghĩa yêu nước rực cháy trong tâm hồn người Việt Nam, tài thao lược “đánh
bằng mưu kế, thắng bằng thế, thời” và nghệ thuật quân sự “lấy nhỏ thắng lớn,
lấy ít địch nhiều” của dân tộc đã được phát huy cao độ, đầy sức sáng tạo, quân
xâm lược không thể lường hết. Với sức mạnh “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem
chí nhân thay cường bạo”, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với chính trị và
ngoại giao, hội tụ được các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, trong đó
quan trọng nhất là “nhân hòa”, dân tộc ta đã tạo nên sự chuyển hóa cả về thế,
thời và lực để đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mang đậm tư tưởng dân chủ và tính nhân văn sâu
sắc, yêu nước gắn liền với yêu dân và ý thức cộng đồng, phản ánh tư tưởng chủ
đạo “Nước lấy dân làm gốc” trong văn hóa chính trị Việt Nam. Năm 1010, với
quyết tâm xây dựng một quốc gia độc lập, hùng cường và bằng tầm nhìn chiến
lược, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là
Thăng Long “để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa làm kế cho con cháu muôn đời,
trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân”. Trong thế kỷ XIII, với tư tưởng tiến bộ
của Trần Hưng Đạo “khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách
để giữ nước”, nhà Trần đã thực hiện “cử quốc nghênh địch”, định hướng và phát huy
cao độ lòng yêu nước của toàn dân để ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên -
Mông. Những năm đầu thế kỷ XV, Nguyễn Trãi cùng các nhà vua giầu tâm huyết và
trí tuệ thời Lê Sơ đã chăm lo xây dựng thống nhất, đồng bộ các yếu tố “dân
giầu, nước mạnh, binh cường”, thực thi nhiều việc làm nhân nghĩa “cốt để dân
yên” và “duy trì thế nước yên”. Vào thế kỷ XVIII, công cuộc giữ nước đòi hỏi tư
duy chiến lược mới là phải chủ động “giữ cho trong ấm, ngoài êm”, kết hợp trấn
áp thù trong với đánh giặc ngoài. Dưới sự lãnh đạo của thiên tài quân sự Nguyễn
Huệ, lòng yêu nước của nhân dân ta được phát huy cao độ trong đấu tranh xóa bỏ
cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh, thống nhất Tổ quốc, đánh thắng quân xâm
lược ở hai đầu đất nước.
Do mang đậm tư tưởng dân chủ và tính nhân văn sâu sắc, chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam đã vượt qua những hạn chế của tính vị kỷ và tâm lý kỳ thị dân
tộc hẹp hòi, tránh được những sai lầm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Khi
tập kích chiến lược triệt phá căn cứ xuất phát tiến công xâm lược Đại Việt của
nhà Tống ở các châu Ung-Khâm-Liêm (10-1075 - 3-1076), Lý Thường Kiệt đã ra bản
tuyên cáo “Phạt Tống lộ bố văn”, nêu rõ mục đích chính nghĩa là “muốn
dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng
dân”. Lời tuyên cáo có lý, có tình cùng những hành động đầy nhân nghĩa của quân
nhà Lý đã được nhân dân ở cả Đại Việt và nước Tống đồng tình, ủng hộ. Trong
cuộc chiến tranh giải phóng do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo, khi quân xâm lược
nhà Minh lâm vào thế cùng, lực kiệt, chấp nhận đầu hàng thì quân và dân ta cởi
bỏ oán thù, mở lòng khoan dung, với “đức lớn hiếu sinh. Nghĩ kế nước nhà trường
cửu. Tha cho mười vạn hàng binh. Gây lại hòa hảo cho hai nước. Dập tắt chiến
tranh cho muôn đời”. Ngay trước chiến dịch đại phá quân Thanh, giải phóng Thăng
Long, Nguyễn Huệ đã lo tính kế sách dập tắt lửa binh; bởi lẽ, “Nếu cứ để lửa
binh liên miên, thật không phải phúc của nhân dân, lòng ta sao nỡ. Vì vậy, sau
khi thắng trận phải khéo dùng từ lệnh thì mới dập tắt được lửa binh”. Sau khi
lên ngôi hoàng đế, Quang Trung đã ra sức thực thi các chính sách an dân và
chính sách ngoại giao hòa bình, lập lại bang giao hòa hiếu với phương Bắc để ổn
định và phát triển đất nước. Trong lịch sử, ông cha ta cũng xử lý khôn khéo các
quan hệ với các nước láng giềng như Lào và Cam-pu-chia, kết hợp ân uy, thông
hiếu, mềm dẻo để phối hợp giúp đỡ lẫn nhau vì đại nghĩa. Đây là điều hiếm có
trong lịch sử nhân loại
Từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm ra con
đường cứu nước gắn kết khát vọng tự giải phóng và vươn lên làm chủ của dân tộc
với xu thế phát triển của thời đại, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có sự phát
triển mới về chất, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống trở thành chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó là chủ nghĩa yêu nước
mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân và
tính dân tộc sâu sắc, được định hướng và thể hiện tập trung ở lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH, dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ những trang lịch sử dân tộc, chúng ta có thể rút ra bài học sâu sắc
là lòng yêu nước chỉ thực sự phát huy sức mạnh to lớn khi có nền tảng tư
tưởng vững chắc, có định hướng chính trị - tư tưởng đúng đắn, được lãnh đạo bởi
lực lượng tiền phong tiêu biểu cho bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc, quy tụ được
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để dựng nước và giữ nước.
Hiện nay, trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm chống phá độc lập dân
tộc và CNXH, các thế lực thù địch ra sức sử dụng chủ nghĩa dân tộc như một vũ
khí tư tưởng lợi hại để hướng, lái lòng yêu nước của nhân dân theo ý thức hệ tư
sản. Chúng ra sức truyền bá, kích động những khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi, cực đoan, phủ nhận nền tảng tư tưởng và định hướng chính trị - tư tưởng
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Không thể phủ nhận vai trò nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Kế thừa và phát triển
những giá trị tư tưởng - lý luận trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh có những thuộc tính bản chất vượt trội so với
các học thuyết xã hội đương thời. Đó là sự thống nhất biện chứng lý luận với
thực tiễn, tính cách mạng triệt để với tính khoa học và tính nhân văn sâu sắc,
không ngừng được bổ sung, phát triển từ thực tiễn sinh động. Bản thân tấm gương
về bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức của các nhà tư tưởng đã có sức cảm hóa và thuyết
phục rất to lớn. Không phải ngẫu nhiên mà sau bao năm bôn ba tìm đường cứu
nước, về cuối đời, nhà yêu nước Phan Bội Châu đã đúc kết trong tác phẩm “Xã hội
chủ nghĩa”: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, phải kén chọn chủ nghĩa cho
vững vàng, chủ nghĩa đích thực là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ngoài ra chớ có nhận
nhầm.
Lòng yêu nước và bản lĩnh Việt Nam xa lạ với tính tự phát, sự cuồng nhiệt
cực đoan và xu hướng sùng ngoại hoặc bài ngoại một cách phiến diện.
Trước
yêu cầu của đất nước thời kỳ đổi mới, mỗi người dân Việt Nam đều nhận thức được
rằng: chúng ta không thể để tình cảm và tâm lý dân tộc bị lợi dụng kích động,
dẫn tới những hành động cảm tính, quá khích, tạo điều kiện cho các thế lực hiếu
chiến lợi dụng tạo cớ gây xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ hoặc chiến
tranh xâm lược kiểu mới đối với nước ta. Cần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng làm
cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chuyển hóa sâu sắc thành
bản lĩnh và trí tuệ của con người và xã hội Việt Nam đương đại, góp phần bảo
đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, ổn định và
phát triển bền vững.
Nhận xét
Đăng nhận xét