Chống diễn biến hòa bình
Chống “Diễn biến hòa bình” và việc xây dựng Quân đội nhân dân vững
mạnh về chính trị
CH 5A
Trong quá trình thực hiện chiến lược “Diễn
biến hòa bình” chống phá CNXH, trong đó có nước ta, các thế lực thù địch đặc
biệt coi trọng thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội. Để nghiên cứu sâu, có cơ
sở lý luận - thực tiễn, từ đó xác định hệ thống giải pháp phòng, chống hiệu quả
thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm này, tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh
về chính trị, chúng ta cần tiếp cận từ gốc của vấn đề - đó là, chiến lược “Diễn
biến hòa bình”.
Quá trình hình thành, phát triển chiến lược
“Diễn biến hòa bình”, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù
địch
Có thể nói, khái niệm “Diễn biến hòa bình” không mới và cũng
không lạ đối với mọi người. Người ta biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của
Thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống
phá các nước đối địch, nhất là nước Nga - Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên
trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Ngược dòng lịch
sử, thậm chí nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Diễn biến hòa bình” nếu xét ở góc
độ mục tiêu, tính chất, nội hàm (bao gồm cả hoạt động phản gián, lật đổ) thì
xuất hiện từ thời Xuân Thu (Thế kỷ VI, trước Công nguyên), cách đây khoảng
2.700 năm, do Tôn Tử - nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng của Trung Quốc phát kiến
và được nêu tại Thiên 13 của cuốn “Binh pháp Tôn Tử”. Tư tưởng chủ
đạo của “Thiên”, hay còn gọi “kế sách” này là “Bất chiến tự nhiên thành”, có
nghĩa “không đánh mà thắng”. Có lẽ cũng vì thế mà sau này một số người thường
gọi “Diễn biến hòa bình” bằng cái tên rất đặc trưng: “Cuộc chiến tranh không
khói súng”. Như vậy, có thể khẳng định: “Diễn biến hòa bình” là cuộc chiến
tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế chính trị; mà đã là chiến tranh
thì dù “có khói súng” (bằng quân sự) hay “không có khói súng” (phi quân sự)
cũng đều chung tính chất quyết liệt và chung mục tiêu là tiêu diệt đối phương
bằng sức mạnh “Cứng” hay sức mạnh “Mềm”, hoặc kết hợp cả hai nguồn sức mạnh
“Cứng” và “Mềm”. Chúng ta thấy, ngay từ đầu “Diễn biến hòa bình” không phải do
CNĐQ phát kiến, nhưng hiện đang là “sản phẩm” của họ và họ có nó trên cơ sở
tiếp thu tư tưởng quân sự cổ đại của nhân loại, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể của từng thời điểm, từng giai đoạn, nhằm giành thắng lợi quyết định
trong “cuộc chiến” sống còn với các quốc gia khác hệ tư tưởng, đối địch.
Không phủ nhận CNĐQ đã đạt được những thành công nhất định trong
việc sử dụng và phát triển chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Trong giai đoạn
đầu, từ khoảng thập niên 20 đến thập niên 50 của thế kỷ trước “Diễn biến hòa
bình” được CNĐQ xác định là một giải pháp quan trọng, giải pháp kết hợp; trong
khi giải pháp quân sự, sử dụng sức mạnh quân sự đóng vai trò quyết định trong
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ. Đến giai đoạn kế tiếp, từ khoảng
thập niên 50 (CNXH đã phát triển thành hệ thống, gồm 13 nước) đến thập niên 90,
cũng như hiện nay, khi điều kiện sử dụng giải pháp quân sự bị thu hẹp và khó
thực hiện, trong khi tiến công CNXH là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, thì “Diễn
biến hòa bình” được CNĐQ đặc biệt coi trọng và nâng tầm thành chiến lược “Diễn
biến hòa bình”. Với việc sử dụng chiến lược nguy hiểm này, CNĐQ đã gây một loạt
sự kiện với cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”,… mà thực chất là
các hoạt động bạo loạn, lật đổ chính quyền ở một số nước, như: Ba Lan, Tiệp
Khắc, Hung ga ri,… vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Đặc biệt, cuối thập
niên 80, đầu 90, CNĐQ đã sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá
quyết liệt CNXH. Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều
nguyên nhân, nhưng rõ ràng trong đó có bàn tay chống phá của CNĐQ. Đáng chú ý
là, trong quá trình tiến hành “Diễn biến hòa bình”, họ thúc đẩy mạnh mẽ “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhất là “phi chính trị hóa” quân đội, làm cho Quân
đội Liên Xô hùng mạnh, với bề dày hơn 70 năm xây dựng bị vô hiệu hóa hoàn toàn.
Biểu hiện cụ thể là, Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mất phương
hướng chính trị, không xác định được mục tiêu chiến đấu, mục tiêu bảo vệ và
cuối cùng Đảng Cộng sản không còn chỗ dựa, không được bảo vệ, mất vai trò lãnh
đạo, dẫn tới sụp đổ chế độ XHCN.
Huyênh hoang, tự đắc với chiến quả giành được và nhằm khuyếch
trương chiến lược “Diễn biến hòa bình”, những quan chức Nhà Trắng và các triết
gia của CNĐQ đã cao giọng dự báo về sự kết thúc của CNXH. Tiêu biểu là Francis
Fukuyama - một người Mỹ gốc Nhật Bản - với bài viết “Sự cáo chung của
Lịch sử” được công bố lần đầu trên Tạp chí “Lợi ích Quốc gia” Mỹ, số
mùa hè 1989, sau này được hoàn chỉnh thành cuốn sách “Sự cáo chung của
Lịch sử và con người cuối cùng” xuất bản năm 1992, phát hành rộng rãi
ở 14 nước, với nhiều thứ tiếng khác nhau. Ý đồ chính trị của cuốn sách được thể
hiện rõ: phủ nhận phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác; phủ nhận giá trị
tiến bộ và khoa học của ý thức hệ giai cấp vô sản; tuyên truyền các giá trị của
CNTB; luận chứng cho việc thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo.
Tương tự như vậy là cuốn “Sự đụng độ giữa các nền văn minh” của
S. Huntington; trong đó, ông ta biện giải và cho rằng nền văn minh phương Tây
là “vô giá”, là “độc nhất vô nhị”. Điển hình trong số đó phải kể đến Tổng thống
Mỹ R. Ních Sơn với cuốn sách “Chớp thời cơ” và cuốn “Năm
1999 - Chiến thắng không cần chiến tranh” nêu dự báo đến cuối Thế kỷ
XX các nước XHCN còn lại sẽ “tự sụp đổ”. Đến nay đã giữa thập niên thứ 2 của
Thế kỷ XXI, nhưng thực tế thì sao? Mọi người đã rõ và đều thấy rằng đó chỉ là
sự võ đoán, hoàn toàn không có cơ sở, hay nói cách khác là sự ảo tưởng phi lý,
phi thực tiễn.
Nhưng không vì thế mà chúng ta mất cảnh giác và xem nhẹ “Diễn
biến hòa bình”, đặc biệt là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế
lực thù địch. Bởi lẽ, chống phá các nước XHCN, tiến tới xóa bỏ CNXH, trong đó
có nước ta, luôn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của CNĐQ. Chừng nào CNĐQ còn
tồn tại thì chừng đó họ còn giữ và theo đuổi mục tiêu đó. Tuy nhiên, tham vọng
là một việc, còn đạt được hay không lại là việc khác. Hơn nữa, quyền quyết định
trong vấn đề này là ở chúng ta chứ không phải họ, nên cho dù âm mưu của họ có
thâm hiểm đến đâu, thủ đoạn có tinh vi, xảo quyệt đến nhường nào thì cuối cùng
cũng không tránh khỏi thất bại.
Đối với nước ta, ngay sau khi kết thúc “Chiến tranh Việt Nam” -
theo cách gọi của người Mỹ, và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược -
theo cách gọi của nhân dân Việt Nam, họ đã nhanh chóng tiến hành một cuộc chiến
tranh mới “không khói súng” - “Diễn biến hòa bình”. Ngoại trưởng Mỹ Kitxinhgơ
khi đó đã ngạo mạn tuyên bố: “Chúng ta thất bại trong chiến tranh, nhưng sẽ
giành chiến thắng trong hòa bình”. Để hiện thực hóa tham vọng, họ đã liên tục tiến
hành các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh,… bằng chiến
lược “Diễn biến hòa bình”; trong đó, thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Đáng chú ý là những năm gần đây, lợi
dụng việc nước ta mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN,… họ đã sử dụng những hình thức, thủ đoạn mới hết sức tinh vi,
thâm độc, nguy hiểm, hòng gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo khủng hoảng
niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Đặc biệt,
nhằm thúc đẩy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân - công cụ bạo lực bảo vệ chế độ XHCN ở nước ta - họ đã phối
hợp hoạt động các lực lượng phản động trong và ngoài nước để chống phá toàn
diện, kể cả từ hệ thống pháp luật Nhà nước. Điển hình là, lợi dụng việc Đảng,
Nhà nước và Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia sửa đổi Hiến pháp
cũng như hiện nay đang tổ chức thực thi Hiến pháp mới, các thế lực thù địch,
phản động đã ra sức chống phá dưới dạng tham gia “góp ý”, “kiến nghị”,… trong
đó trắng trợn đòi bỏ Điều 4 của Chương I, đòi bỏ hiến định “Đảng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”; rằng, cần phải sửa Chương IV - “Bảo vệ Tổ quốc” với biện giải
lố bịch: “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân, theo đó
chỉ có chức năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chứ không có chức năng bảo vệ
Đảng, Nhà nước hay bất cứ tổ chức chính trị nào”; rằng, “Quân đội không chịu sự
lãnh đạo của Đảng”. Rõ ràng đây là những luận điểm hết sức phản động, hoàn toàn
trái với cơ sở lý luận, thực tiễn. Thế nhưng đáng quan ngại là, không phải ai
cũng thấy, trong đó có một số ít người do thiếu thông tin và nhận thức hạn chế
đã ngộ nhận, cả tin, thậm chí bị “thuyết phục” bởi những luận điệu tuyên truyền
độc hại đó. Cũng không nằm ngoài mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội, họ còn sử
dụng thủ đoạn “vàng thau lẫn lộn”, đánh đồng sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ
Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam với binh sĩ quân đội Ngụy quyền Sài Gòn, bằng
cách ngụy biện: “họ đều hy sinh vì Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc”, từ đó đòi Nhà nước
ta ghi công và cho hưởng chế độ liệt sĩ. Thật nực cười, phi lý! Điều đó cho
thấy, các thế lực thù địch không từ bất cứ một thủ đoạn nào hòng đạt cho được
mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội. Và, khi không thực hiện được, họ dở chiêu
bài bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín của Quân đội. Cho nên chủ động đấu tranh
làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhất là thủ đoạn “phi chính trị
hóa” quân đội của các thế lực thù địch, đồng thời gắn liền với đó, xây dựng
QĐND vững mạnh về chính trị là vấn đề đặc biệt quan trọng, cấp thiết hiện nay.
Thực chất đây là mối quan hệ giữa “bảo vệ và xây dựng”; trong
đó, mỗi nội dung có nội hàm riêng, nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng,
không tách rời nhau. Khi giải quyết vấn đề này, cần gắn chặt hai nội dung,
không được xem nhẹ bất cứ nội dung nào. Sẽ là không đúng, nếu chúng ta chỉ chú
trọng một chiều đến yếu tố “bảo vệ”, tức là đấu tranh chống “phi chính trị hóa”
quân đội, mà xem nhẹ yếu tố “xây dựng”, mà ở đây là xây dựng Quân đội vững mạnh
về chính trị; tương tự như vậy, nếu chỉ xem trọng yếu tố “xây dựng”, mà không
quan tâm đúng mức đến yếu tố “bảo vệ” cũng là sai. Phương pháp nghiên cứu, xem
xét và giải quyết đúng đắn vấn đề này là, phải trên cơ sở tư duy biện chứng,
khoa học; coi trọng giải quyết đồng bộ cả hai nội dung: đấu tranh làm thất bại
mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch và đẩy mạnh xây
dựng QĐND vững mạnh về chính trị.
Chủ động đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “phi
chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch
Trước hết, về mặt nhận thức, tư tưởng, cần xác định rõ: CNĐQ,
các thế lực thù địch là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Họ đã và đang tiến
hành chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Do đó, chống
“Diễn biến hòa bình” thực sự là “cuộc chiến” không khoan nhượng, diễn ra hằng
ngày, hằng giờ, hết sức quyết liệt, phức tạp. Trong đó, đối tượng mà họ nhằm vô
hiệu hóa, trước hết “phi chính trị hóa” là lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là
QĐND và Công an nhân dân. Đây là lực lượng có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Mục tiêu của họ nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm
cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất chỗ dựa vững chắc, mất vai
trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và
xã hội. Và, một khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị vô hiệu hóa, bị xóa bỏ, thì
tất nhiên chế độ XHCN sẽ sụp đổ. Để hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa”
quân đội và đạt mục tiêu nêu trên, các thế lực thù địch sử dụng mọi lực lượng,
phương tiện, tiền bạc, vật chất và tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi “chiêu
bài” xảo quyệt, tinh vi, thâm độc, nhưng nhìn chung các hoạt động diễn ra chủ
yếu trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Nội dung mà họ tập trung tuyên truyền
chống phá là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Quân đội ta
từng bước rời bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, để chống mưu đồ “phi chính
trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đạt hiệu quả cao thì trước hết và
quan trọng nhất là phải chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù
địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cốt yếu là
nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và
phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, cả lực lượng, phương tiện, vật chất đảm bảo,…
với phương pháp tiến hành (cách thức) linh hoạt, chủ động và có hệ thống giải
pháp đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong “cuộc chiến”
quyết liệt này.
Về lực lượng, cần có lực lượng đấu tranh rộng rãi là toàn dân và lực lượng
nòng cốt được tổ chức thành hệ thống trong các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính
trị, Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là các viện, trung
tâm nghiên cứu, học viện, nhà trường…; trong đó, Quân đội, Công an đóng vai trò
xung kích của lực lượng nòng cốt. Những người trong lực lượng nòng cốt phải gồm
các nhà nghiên cứu, khoa học có trình độ lý luận chính trị cao, kiến thức rộng,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu kinh nghiệm viết bài đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân
đội.
Về phương tiện, gồm các phương tiện truyền thông, đấu tranh
trên in-tơ-nét, các trang mạng xã hội, Blog,… kết hợp với các phương thức tuyên
truyền phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình và đối tượng. Đối với các cơ
quan báo chí, cần có sự chỉ đạo chặt chẽ, định hướng kịp thời, phân công và
phân cấp tuyên truyền về các sự kiện một cách phù hợp; trong đó báo chí quân
đội phải là lực lượng nòng cốt, xung kích trong đấu tranh chống quan điểm “phi
chính trị hóa” quân đội.
Về phương pháp đấu tranh, cần phải chủ động, linh hoạt, tránh thụ động
khi có sự việc phức tạp xảy ra mới tổ chức tuyên truyền, đấu tranh. Quá trình
thực hiện phải coi trọng đấu tranh trực diện, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm
độc của các thế lực thù địch, hòng làm phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng
cách mạng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội, hoặc kích động gây mất đoàn kết nội
bộ, chia rẽ giữa Quân đội với Công an và Đảng, Nhà nước. Cần kết hợp đấu tranh
tuyên truyền chống các luận điểm “phi chính trị hóa” quân đội một cách thường
xuyên với tuyên truyền theo đợt (cao điểm), nhất là vào thời điểm tổ chức các
sự kiện lớn của đất nước và Quân đội.
Về chính sách và cơ chế, cần có chính sách, cơ chế hợp lý nhằm động
viên, khuyến khích và bảo vệ những người viết bài đấu tranh chống quan điểm sai
trái, thù địch, trong đó có “phi chính trị hóa” quân đội. Đồng thời, có cơ chế
cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền kịp thời và quy chế phối hợp giữa
các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý báo chí và sự phối hợp giữa các cơ quan
báo chí trong và ngoài Quân đội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh
chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Một số giải pháp xây dựng QĐND vững mạnh về
chính trị
Cần quán triệt sâu sắc phương châm: gắn “xây dựng với bảo vệ”,
“bảo vệ với xây dựng”; xây dựng là một nội dung của bảo vệ và là biện pháp
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội hiệu quả
nhất. Như đã đề cập ở trên, mục đích thúc đẩy “phi chính trị hóa” quân đội của
các thế lực thù địch hòng làm cho Quân đội ta từ bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng,
phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, xa rời phương hướng chính trị,
mục tiêu chiến đấu và cuối cùng dẫn tới xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Âm mưu của
họ rất thâm hiểm. Do đó, để xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị thì vấn đề quan
trọng hàng đầu là phải tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục
chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ đảng viên
và cán bộ chủ chốt các cấp. Đề cập đến vấn đề này, thoạt nghe có vẻ giáo điều,
“muôn thuở”, nhưng thực tế không phải vậy. Trái lại, nó thật sự quan trọng và
cấp thiết, nhất là trong tình hình phức tạp hiện nay, khi mà các thế lực thù
địch đang thúc đẩy mạnh mẽ “phi chính trị hóa” quân đội. Quá trình tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng phải coi trọng mọi đối tượng, coi trọng
tính toàn diện; nhưng trước hết và quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên
và nội dung trọng tâm là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục
giữ vững bản chất giai cấp công nhân, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu cho
Quân đội. Đây là vấn đề cốt yếu nhất, là cơ sở nền tảng vững chắc đảm bảo cho
Quân đội bất luận trong hoàn cảnh nào, dù khó khăn phức tạp đến đâu cũng vững
vàng, không bị “diễn biến, chuyển hóa”, “phi chính trị hóa”, luôn trung thành
với Đảng, Nhà nước, nhân dân, Tổ quốc XHCN. Đồng thời, còn nhằm trang bị “vũ
khí luận” cho cán bộ, đảng viên để họ đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.
Đi đôi với giáo dục chính trị, tư tưởng, cần coi trọng
xây dựng về tổ chức, trước hết là tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh.
Các cấp phải thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đảng, coi đó là khâu then
chốt, nhằm đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với QĐND. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và cũng là yêu
cầu cấp thiết của nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, trong đó có mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội
của các thế lực thù địch. Thực tiễn đã khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, quyết định sức mạnh, sự
trưởng thành, chiến thắng của QĐND. Vì thế trong thời gian tới chúng ta cần
phải đặc biệt coi trọng công tác này.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của tổ
chức đảng các cấp, cần chú trọng kiện toàn cấp ủy gắn với tổ chức chỉ huy đảm
bảo chất lượng, số lượng và cơ cấu; gắn xây dựng cấp ủy viên với cán bộ chủ
chốt các cấp; chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
cả về phẩm chất, năng lực, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới. Đặc biệt, trong hoạt động lãnh đạo, cấp ủy các cấp phải tăng cường sự đoàn
kết, thống nhất; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
đi đôi với phân công cá nhân phụ trách; đồng thời, tích cực đổi mới phương thức
lãnh đạo, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát theo phương
châm: “Giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm”,
nhất là việc thực hiện Nghị quyết, Điều lệ Đảng, giải quyết kịp thời, minh bạch
các đơn thư tố cáo, khiếu nại và xử lý nghiêm các vi phạm. Cấp ủy các cấp lãnh
đạo chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về tiến hành
chuẩn bị tổ chức đại hội đảng nhiệm kỳ 2015-2020. Đồng thời, thực hiện nghiêm
Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 về những điều đảng viên không được làm của
Ban Chấp hành Trung ương.
Cùng với đó, phải thực hiện tốt và gắn chặt các mặt công
tác cán bộ, tổ chức, dân vận, chính sách, tư tưởng,… Tiếp tục quán triệt, thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với thực hiện Chỉ
thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tổ chức tốt phong trào Thi đua Quyết
thắng, các cuộc vận động, nhất là Cuộc vận động: “Phát huy truyền thống, cống
hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng
khắp và là nguồn động lực tinh thần to lớn cho toàn quân thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ. Trong bối cảnh các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động
chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân
đội, chúng ta càng phải nêu cao cảnh giác, tăng cường các biện pháp phòng ngừa
những phát sinh phức tạp về tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ. Gắn liền với đó,
phải hết sức coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chống việc lộ, lọt
thông tin, các hiện tượng móc nối, cài cắm, xâm nhập hoặc thẩm thấu quan điểm
xấu từ bên ngoài vào Quân đội dưới mọi hình thức; phấn đấu đảm bảo tuyệt đối an
toàn về an ninh, chính trị, tư tưởng của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.
Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, phải thường
xuyên chăm lo kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ
quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng,
đoàn thể, hội đồng quân nhân. Bởi, đây là các tổ chức, cá nhân
trực tiếp chỉ đạo và tổ chức triển khai các hoạt động công tác đảng, công tác
chính trị - yếu tố quyết định chất lượng xây dựng Quân đội về chính trị. Từ
thực tiễn, nhất là qua Sơ kết 9 năm thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính
trị (khóa IX), Nghị quyết 513/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là
Quân ủy Trung ương) chúng ta cần đánh giá đúng thực chất (cả ưu điểm và hạn
chế, tồn tại), rút ra những bài học kinh nghiệm, để tiếp tục vận dụng thực hiện
có hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, cần coi trọng nâng cao phẩm chất,
năng lực cho chính ủy, chính trị viên để họ hoàn thành tốt chức trách, cương vị
được giao; đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính ủy, chính trị viên
với người chỉ huy, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện các mặt công tác, các nhiệm vụ của đơn vị.
Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của quân và dân ta được
tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là
tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng,
khó lường; do đó bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, cũng có không ít khó khăn,
thách thức. Trong đó, thách thức gay gắt nổi lên là sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với Quân đội ta, họ
thúc đẩy mạnh mẽ “phi chính trị hóa” bằng những hình thức, thủ đoạn mới tinh
vi, thâm độc. Cùng với đó là những diễn biến phức tạp mới ở Biển Đông, trực
tiếp đe dọa đến chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trước tình
hình trên, chúng ra cần chú trọng thực hiện tốt công tác thông tin,
tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Đặc
biệt, trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, mọi thông tin
được chuyển tải nhanh, lan tỏa rộng, thì công tác này lại càng quan trọng,
nhưng trong thực hiện có không ít khó khăn, phức tạp. Vì thế, công tác thông
tin, tuyên truyền càng cần phải được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời, chính xác. Trong
đó phải bảo đảm sự chủ động, giữ vững “trận địa thông tin”, làm chủ nguồn tin
và độ tin cậy nguồn tin, nhằm tạo dư luận tốt trong xã hội nói chung và trong
Quân đội nói riêng. Trong khi thông tin, tuyên truyền về những sự kiện nhạy cảm
cần gắn với định hướng tư tưởng, giúp cho bộ đội và nhân dân nhận thức đúng và
hiểu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước, trên cơ sở đó không bị kích động bởi
những thông tin xấu độc, trái chiều. Trong thời gian qua, nhìn chung chúng ta
thực hiện khá tốt công tác này, nhưng bên cạnh đó cũng còn những hạn chế, vô
tình tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
Một vấn đề không thể thiếu của quá trình xây dựng QĐND vững mạnh
về chính trị đó là công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.
Quân đội ta đã trải qua 70 năm xây dựng và đã tiến hành tổng kết, sơ kết, tổ
chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, từ đó đúc kết nhiều bài học kinh nghiệm về
công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng Quân đội về chính trị. Mặc dù thực
tiễn luôn vận động, phát triển, nhưng phần lớn những bài học kinh nghiệm đó vẫn
rất quý báu, còn nguyên giá trị đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh về
chính trị hiện nay. Do đó, chúng ta cần tiếp tục quan tâm đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác đảng, công tác chính trị. Vì
vậy, Tổng cục Chính trị, các trung tâm nghiên cứu, viện, học viện, nhà trường
trong Quân đội có vai trò, trách nhiệm rất lớn trong công tác này. Nếu được
quan tâm đầu tư về mọi mặt, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn sẽ
góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công
tác chính trị, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới.
Nhận xét
Đăng nhận xét