D3. (KỶ NIỆM 200 NĂM NGÀY SINH CÁC MÁC (1818 - 2018)). QUÁN TRIỆT VÀ VẬN DỤNG TINH THẦN SÁNG TẠO CỦA CÁC MÁC
Các Mác (1818 - 1883) - nhà bác học
thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế
giới. Là một nhà cách mạng của khoa học, nhà cách mạng dựa vào khoa học. Mác đã đạt tới những
đỉnh cao nhất của khoa học, để từ đó đi xuống nhân dân và làm cho khoa học trở
thành tài sản chung của nhân dân.
Nhận
rõ vai trò to lớn của tư duy lý luận đối với thực tiễn cách mạng, Mác đã hướng
hoạt động của mình vào nghiên cứu, sáng tạo khoa học vì sự nghiệp giải phóng
giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân lao động khỏi xiềng xích trói buộc.
Tinh thần sáng tạo của Mác luôn được thể hiện: Bằng cách này hay cách
khác, tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và các thiết chế nhà nước do nó
dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà ông là người đầu tiên đã đem lại cho
giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu cầu của mình, ý thức
về điều kiện để giải phóng mình, đó thật sự là sứ mệnh thiết thân của ông.
Hệ
thống lý luận đồ sộ của Mác bao quát tất cả các lĩnh vực cơ bản của khoa học xã
hội đương thời. Trong từng lĩnh vực, Mác đều nghiên cứu hết sức sâu sắc và phát
triển, hoàn thiện tới trình độ khoa học. Mác đã làm một cuộc cách mạng thực sự
trong triết học. Chính Mác là người tiếp sức mạnh khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc và phép biện chứng của Hê-ghen. Đứng vững trên lập
trường duy vật, sáng suốt tiếp thu hệ thống triết học đồ sộ của Hê-ghen, Mác
(cùng với Ăng-ghen) đã cứu phép biện chứng tự giác khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa
duy tâm; kết hợp chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng để có sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên nền
tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Mác đã trang bị cho loài người cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới bằng cách
mạng: "Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và
kinh hoàng cho giai cấp tư sản... vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép
biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái
đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất
thì nó có tính chất phê phán và cách mạng".
Mặt
khác, khi nhận thấy chủ nghĩa duy vật cũ không triệt để, chưa hoàn bị và phiến
diện, Mác đã vận dụng và mở rộng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào xem xét đời
sống xã hội, xây dựng nên chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, hay nói cách
khác, việc vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực xã hội, đã
loại bỏ khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia và "...đã
vạch ra con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học, coi lịch sử là một quá
trình thống nhất và có quy luật, mặc dầu quá trình đó cực kỳ phức tạp và có rất
nhiều mâu thuẫn". Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã trở thành một trong
những phát minh vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học nhân loại. Các nguyên lý khoa
học trong đó được dùng làm "kim chỉ nam" định hướng cho các hoạt động
nghiên cứu sau này của Mác, và đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Mác xuất phát từ
quan điểm duy vật để khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; đời
sống xã hội về căn bản là có tính chất thực tiễn; sản xuất vật chất là nền tảng
của đời sống xã hội, bởi vì "...con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ
ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và
v.v.. được". Đây chính là cơ sở khoa học để Đảng ta đề ra chủ trương
kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, trong đó lấy đổi
mới kinh tế làm trung tâm và từng bước đổi mới chính trị; quan tâm tới lợi ích
của con người, mà trước hết là lợi ích của người lao động; lấy con người là
trung tâm của toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội tất cả cho con
người, vì con người, do con người.
Nghiên
cứu quá trình sản xuất xã hội, bằng sức trừu tượng hoá, sáng tạo khoa học, Mác
đã chỉ ra mối quan hệ "song trùng" giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quy luật cơ
bản, động lực nội tại quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của mọi quá
trình sản xuất xã hội qua các phương thức sản xuất từ thấp đến cao. Sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ lực lượng sản xuất là yêu cầu khách quan,
thực chất của quy luật. Đồng thời, Mác cũng chỉ rõ tính mâu thuẫn của sự phù
hợp dẫn tới phát sinh mâu thuẫn mới cần giải quyết. Từ chỗ là hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất lại trở thành xiềng xích trói
buộc lực lượng sản xuất phát triển, đó là thời điểm mà con người phải can
thiệp, giải quyết mâu thuẫn. Đồng thời, Mác đã chỉ rõ: quan hệ sản xuất cũ
không tự mất đi khi địa bàn mà nó mở ra cho lực lượng sản xuất phát triển vẫn
chưa được phát triển. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Mác, căn cứ vào thực
tiễn nền kinh tế của nước ta cũng như những bài học kinh nghiệm quý báu được
rút ra từ các nước trên thế giới, trong đổi mới kinh tế, Đảng ta đã chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, Đảng ta khẳng định các thành phần kinh tế ngoài xã hội chủ nghĩa cần
được duy trì phát triển song song với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ mất đi khi hết vai trò trong sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Từ
việc nghiên cứu tìm ra bản chất, quy luật vận động riêng của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra,
Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị
thặng dư, xé toang bức màn bí mật che phủ xã hội tư bản chủ nghĩa tạo cơ sở
khoa học để nhận thức bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Mác đã làm được
cái điều mà các nhà nghiên cứu trước đó phải mò mẫm trong bóng tối. Chúng ta có
thể nhận thấy xác thịt của tư bản thì có thể thay đổi, nhưng bản chất bóc lột
giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản thì không hề thay đổi. Dù cho chủ nghĩa
tư bản hiện đại có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế nhưng bản chất bóc
lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi. Giai cấp công nhân
vẫn tiếp tục bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hoá cả tuyệt đối, cả tương đối.
Mâu thuẫn kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa giữa lực lượng sản
xuất xã hội hoá ngày càng cao với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa
ngày càng gay gắt mà biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn đối kháng dẫn đến
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản ngày càng
quyết liệt, được biểu hiện dưới nhiều dạng thái mới.
Phát hiện của Mác về sự xuất hiện và
tồn tại của giai cấp, đấu tranh giai cấp, về tính tất yếu của chuyên chính vô
sản như kết quả tất yếu của đấu tranh giai cấp, đồng thời là bước quá độ đến một
xã hội không còn giai cấp, không còn nhà
nước. Từ những phân tích về triết học, kinh tế - chính trị, Mác khẳng định:
"Trong tất cả các giai cấp hiện đại đang đối lập với giai cấp tư sản thì
chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác
đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp". Giai cấp
công nhân hiện đại có đầy đủ những phẩm chất để trở thành một giai cấp tiên
tiến, cách mạng triệt để nhất, đủ điều kiện để đảm đương sứ mệnh lịch sử thủ
tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Mác chỉ
rõ: giai cấp vô sản là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử đầy khó khăn gian khổ của mình, giai cấp vô sản phải
được trang bị lý luận tiền phong và tổ chức ra hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng
sản, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp một mất, một còn với giai cấp
tư sản. Ngược lại, giai cấp tư sản để duy trì địa vị thống trị đã không từ bỏ
một thủ đoạn nào nhằm phá hoại sức mạnh đoàn kết chiến đấu của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Mác đã từng cảnh báo về nguy cơ giai cấp tư sản dùng
vật chất để mua chuộc, hủ hoá những người lãnh đạo của giai cấp công nhân, thậm
chí tư sản hoá cả một bộ phận giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển.
Mác
là nhà cách mạng, "Đấu tranh là hành động tự nhiên của Mác. Và Mác đã đấu
tranh một cách say sưa, kiên cường và có kết quả, không mấy người được như
vậy". Mác hoà mình vào trong các phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của mình. Mác đi
tới đâu, phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ ở đó. Dưới nhiều hình thức,
Mác đã tích cực giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ và tổ chức sự liên hiệp đấu
tranh của giai cấp công nhân thế giới. Sự ra đời của "Hội liên hiệp công nhân quốc tế" (1864-1872) tổ chức
tiền thân của các đảng cộng sản, là trung tâm lãnh đạo phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân toàn thế giới mà Mác là một thành viên sáng lập, lãnh tụ
hàng đầu, linh hồn của Hội. Với Mác, sáng tạo là phần thường lớn nhất,
"vòng hoa vinh quang" trong sự nghiệp hoạt động thực tiễn đấu tranh
cách mạng sôi nổi của ông.
Vận dụng tinh thần sáng tạo của Mác trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay ở nước ta đòi hỏi Đảng ta phải luôn quan tâm tới việc chăm lo phát
triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; tăng cường việc xây
dựng, củng cố Đảng; không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính
tiền phong, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội; nâng cao trình độ tư
duy lý luận của Đảng. Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn của đất nước, đề ra đường lối
đổi mới đúng đắn... là điều kiện tiên quyết đảm bảo thực hiện thắng lợi vai trò
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét