Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí
Minh là vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta, nhân dân ta và nhân loại kho tàng di sản
lý luận quý báu; trong đó, có tư tưởng quân sự của Người. Tư tưởng về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân là một bộ phận trọng yếu, gắn bó
hữu cơ, hợp thành tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là định
hướng xuyên suốt cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đây cũng chính là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng ta vận dụng sáng tạo
và đề ra những giải pháp chiến lược cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh họp với Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở
Chiến dịch Biên giới năm 1950. (Ảnh tư liệu)
Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nền quốc phòng toàn dân là: Chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân để xây dựng quốc phòng. Đây là luận điểm
cách mạng, khoa học quan trọng, xuyên suốt trong tư tưởng của Người về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng quốc phòng là yêu cầu khách quan của mọi quốc
gia có chủ quyền, trong đó bao hàm cả nước ta. Ngay từ tháng 9-1945, khi chính
quyền cách mạng vừa được thiết lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Nước
ta mới tranh lại quyền độc lập tự do, nhưng còn phải trải qua nhiều bước khó
khăn, để củng cố quyền tự do độc lập đó. Vậy nên quốc dân ta, bất kỳ già trẻ, đều
phải ra sức gánh vác một vai”. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
Người thường xuyên nhắc nhở: “Để ngăn chặn âm mưu của kẻ địch, thì cán bộ, bộ đội
và nhân dân ta cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác”; “Phải củng cố lực lượng
quốc phòng, giữ gìn trật tự trị an, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi
hoạt động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân để xây
dựng nền quốc phòng và chỉ có như vậy, chúng ta mới xây dựng được nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng và thế
trận quốc phòng. Không những thế, đó phải là nền quốc phòng độc lập, tự chủ, tự
lực tự cường, ngày càng hiện đại, có sự gắn kết chặt chẽ giữa quốc phòng với an
ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa - xã hội,… đây vừa là mục tiêu, vừa là phương
châm xây dựng nền quốc phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
ta. Nền quốc phòng độc lập tự chủ, tức là không bị lệ thuộc vào nhân tố bên
ngoài; độc lập nhưng không khép kín, lấy phát huy nội lực là chính; đồng thời,
triệt để tận dụng mọi nguồn lực từ bên ngoài để không ngừng nâng cao tiềm lực
và sức mạnh quốc phòng. Xây dựng nền quốc phòng là sự nghiệp cao cả của toàn Đảng,
toàn dân; trong đó, lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt, đặt dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà
nước, v.v. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nền quốc phòng của nước ta là nền quốc
phòng toàn dân. Đó là nền quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ và mang bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; nhiệm vụ của nó không chỉ bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà còn bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và cũng không chỉ chống giặc ngoài, mà còn chống cả thù trong. Vì vậy,
Người nhấn mạnh: Phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện. Nghĩa là
nhân dân phải là chủ thể của nền quốc phòng, mọi người dân đều có trách nhiệm
và nghĩa vụ tham gia xây dựng nền quốc phòng vững mạnh toàn diện. Tính chất
toàn dân và toàn diện quan hệ chặt chẽ với nhau và là cơ sở tạo nên sức mạnh tổng
hợp của nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu bảo đảm sự ổn định để phát triển
đất nước; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh nhân dân được hình thành trên cơ sở tiếp thu nguyên lý của chủ nghĩa Mác
– Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng; đồng thời, kế thừa và
phát triển lên tầm cao mới truyền thống toàn dân đánh giặc, “trăm họ là binh” của
dân tộc ta. Tư tưởng cơ bản này được Người nêu rõ trong Chỉ thị thành lập Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân: “Phải động viên toàn dân, vũ trang toàn
dân,…”. “Toàn dân” theo tư tưởng của Người là toàn dân tộc, được thể hiện rất
rõ trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (ngày 19-12-1946): “Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ
là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc.
Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Thực tiễn khẳng định, tư tưởng
Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân luôn thống nhất với quan điểm của Đảng ta
và là cơ sở để Đảng ta hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Nội hàm tư tưởng đó của Người gồm những quan điểm cơ bản, đó là: Kháng chiến
toàn dân - toàn thể nhân dân tham gia kháng chiến; kháng chiến toàn diện - đấu
tranh trên tất cả các mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, binh địch
vận,…; trường kỳ kháng chiến - đánh lâu dài, thắng địch từng bước, tiến tới
giành thắng lợi quyết định; tự lực cánh sinh - dựa vào sức mình là chính. Nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc tự lực cánh sinh, Người viết: “Cố nhiên sự giúp đỡ
của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ
người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp
đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn có những luận điểm quan trọng khẳng định tính tất yếu phải xây dựng thực lực
cách mạng, lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân. Trong tiến trình
phát triển của cách mạng nước ta, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực
lượng vũ trang cách mạng ở nước ta từng bước ra đời, được tổ chức, xây dựng và
không ngừng phát triển, lớn mạnh. Đây chính là lực lượng nòng cốt cho toàn dân
tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng
Tháng Tám và tiếp đó là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trong hai cuộc
kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành vẻ
vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Một trong những
nét đặc sắc nhất, nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là về nghệ thuật quân
sự của chiến tranh nhân dân. Với tư duy quân sự sắc sảo, tầm nhìn chiến lược
sâu rộng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phát triển chiến tranh
nhân dân độc đáo, đặc sắc, sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến
phương thức tiến hành chiến tranh, phương pháp tác chiến (cách đánh) của lực lượng
vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích), với
các hình thức (tiến công, phòng ngự); tác chiến ở mọi quy mô (đánh lớn, đánh vừa,
đánh nhỏ), thực hiện tiêu diệt từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước,
tiến tới đánh bại lực lượng lớn quân địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Nghệ thuật
kết hợp lực, thế, thời, mưu là một nội dung cơ bản trong tư tưởng quân sự của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo quan điểm của Người, “lực,
thế, thời, mưu” là những nhân tố quan trọng, nếu kết hợp chặt chẽ với nhau có
thể sẽ tạo ra khả năng đột biến ở thời điểm quyết định, làm thay đổi cục diện
chiến trường, thậm chí cả cuộc chiến tranh. Nghệ thuật “tạo lực, lập thế, tranh
thời, dùng mưu” là nét đặc trưng của nghệ thuật quân sự, được Đảng ta luôn coi
trọng vận dụng, phát huy trong các cuộc chiến tranh giải phóng. Gắn liền với
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán tư tưởng chiến lược tiến công, “kiên
quyết không ngừng thế tiến công”. Tiến công để giành và giữ quyền làm chủ,
giành và giữ quyền làm chủ để tiến công địch. Thực hành tiến công địch ở mọi
lúc, mọi nơi, bằng mọi lực lượng và mọi loại vũ khí, trang bị, từ thô sơ đến
tương đối hiện đại và hiện đại. Đó là nét độc đáo, sáng tạo của chiến tranh
nhân dân Việt Nam - cuộc chiến tranh do toàn dân tiến hành, lực lượng vũ trang
làm nòng cốt. Người luận giải: Do lực lượng ta yếu hơn địch nên ta phải tiến
công; khi lực lượng ta mạnh hơn địch, ta càng phải tiến công, “quân và dân ta
phải luôn gắng sức, luôn tiến công, chỉ có tiến không có thoái”. Trong những
trường hợp và thời điểm nhất định, xét về hình thức tác chiến là phòng ngự,
nhưng về mặt tư tưởng là tiến công, phải luôn “Giữ thế công mới đánh được giặc,
không đánh được trận to thì đánh trận nhỏ”.
Cuộc chiến tranh do nhân dân ta
tiến hành, dù là chiến tranh giải phóng hay chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống
chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa của các thế lực thù địch là những
cuộc đọ sức rất quyết liệt giữa ta và địch trên tất cả các mặt trận kinh tế,
chính trị, quân sự, đối ngoại…; trong đó, đấu tranh vũ trang (quân sự) là đặc
trưng, giữ vai trò trực tiếp quyết định. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quy luật của
chiến tranh là mạnh được yếu thua, vì thế để giành thắng lợi, xét về tổng thể
thì ta phải mạnh hơn địch. Do đó, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp, sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là
lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mà còn là nhà quân sự thiên tài. Tư chất
thiên tài quân sự của Người được hình thành và phát triển trong suốt quá trình
hoạt động cách mạng phong phú, trên cơ sở tiếp thu học thuyết quân sự Mác –
Lê-nin, truyền thống quân sự đặc sắc của dân tộc ta và tinh hoa quân sự thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, quốc phòng, mà cốt lõi là về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc,
là tài sản vô giá của Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta. Trước yêu cầu cao của
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tư tưởng đó của Người cần tiếp tục được quán triệt, vận
dụng sáng tạo trong thực tiễn; nhất là trong xây dựng Chiến lược Quốc phòng,
Chiến lược Quân sự Việt Nam thời kỳ mới. Để việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân vào xây dựng Chiến lược
Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam một cách hiệu quả, cần tập trung giải
quyết tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, nhận thức đúng
giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh
nhân dân trong quá trình xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt
Nam trong thời kỳ mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân đã được khẳng định ở cả góc độ lý
luận và thực tiễn. Nó có ý nghĩa, vai trò vô cùng to lớn đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc nói chung và xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt
Nam trong thời kỳ mới nói riêng. Do đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
chiến lược thuộc cơ quan chiến lược của Bộ Quốc phòng không những nhận thức đầy
đủ, sâu sắc giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, quốc phòng, về xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, mà còn phải nắm vững nội hàm tư tưởng
cách mạng của Người. Chỉ có như vậy, việc vận dụng tư tưởng của Người trong xây
dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới mới đảm
bảo chất lượng, hiệu quả, đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Cần phải thấy rằng, tư tưởng Hồ
Chí Minh về quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân có nội dung rộng, gồm những
vấn đề lý luận cơ bản, toàn diện và mang tính xuyên suốt sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng đó của Người luôn nhất quán với quan điểm của Đảng và là cơ sở để
Đảng ta nghiên cứu, hoạch định đường lối chính trị, đường lối quân sự trong từng
giai đoạn cách mạng. Mặc dù những luận điểm về quốc phòng toàn dân, chiến tranh
nhân dân, nhất là những vấn đề về xây dựng thực lực cách mạng, lực lượng vũ
trang nhân dân, Quân đội nhân dân, nghệ thuật quân sự, xây dựng căn cứ địa cách
mạng, hậu phương chiến lược,… mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra cách đây đã nhiều
năm nhưng không hề cũ, không bị phai nhạt bởi thời gian; trái lại, nó không những
có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn trong thời kỳ đó, mà còn nguyên giá trị đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta hiện nay. Đặc biệt,
nội dung tư tưởng đó của Người cũng là những nội dung cơ bản của Chiến lược Quốc
phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng hai chiến lược này, nhất thiết phải nhận thức đầy đủ giá trị, nắm vững
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân để vận
dụng, tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, nhằm xây dựng Chiến lược Quốc phòng,
Chiến lược Quân sự Việt Nam đảm bảo chất lượng, đúng định hướng, đáp ứng yêu cầu
tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Hai là, nắm vững định
hướng cơ bản của Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam trong thời
kỳ mới.
Trước bối cảnh tình hình quốc tế
có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nên nhiều quốc gia trên thế giới, nhất
là những nước lớn đã và đang triển khai xây dựng chiến lược toàn cầu và chiến
lược an ninh quốc gia, nhằm bảo đảm sự chủ động về chiến lược trong tình hình mới.
Điều đó cho thấy sự cần thiết cũng như tầm quan trọng của các chiến lược quốc
gia về lĩnh vực quốc phòng, an ninh đối với mỗi nước.
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước
đặc biệt quan tâm và đã có chỉ đạo sát sao đối với việc xây dựng Chiến lược Quốc
phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới. Báo cáo Chính trị tại Đại
hội X của Đảng xác định: “Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược
quốc gia: Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược An ninh và các chiến lược chuyên
ngành khác”. Thực hiện chủ trương đó, Bộ Quốc phòng đã chủ trì nghiên cứu, khảo
sát, tổ chức hội thảo khoa học, cho đến nay đã dự thảo lần thứ 9 Chiến lược Quốc
phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam thời kỳ mới. Để hoàn thành hai chiến lược
này đảm bảo chất lượng, đòi hỏi phải phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, trước hết và trực tiếp là của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng - cơ
quan chủ thể soạn thảo. Đặc biệt, phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và nắm vững
định hướng cơ bản của các chiến lược; thấu suốt quan điểm xây dựng Chiến lược
Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam là công việc hệ trọng của quốc gia, có
nội hàm rất rộng, liên quan đến mọi ngành, mọi cấp, mọi tổ chức, lực lượng,…
nên không thể thực hiện một cách qua loa, giản đơn, thiếu cơ sở khoa học và
hoàn thành trong “một sớm một chiều”. Trước hết, cần nắm vững Chiến lược Quốc
phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia trong từng thời kỳ bằng sức mạnh
tổng hợp, với sức mạnh quốc phòng là đặc trưng, sức mạnh quân sự là cốt lõi.
Trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa quân sự với chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa
học, công nghệ, đối ngoại,… để thực hiện mục tiêu giữ vững hòa bình, ổn định, tạo
môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước, góp phần củng cố hòa bình, ổn định,
hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới; trong đó, mục tiêu quan trọng
hàng đầu là ngăn chặn, đẩy lùi và sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ
quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc...”. Chiến lược Quốc phòng tối ưu là chiến
lược giữ nước và bảo vệ chế độ từ sớm, từ xa bằng giải pháp phi vũ trang là chủ
yếu, mà không cần phải tiến hành chiến tranh, đấu tranh vũ trang hoặc các giải
pháp bạo lực khác; có mối quan hệ, gắn bó hữu cơ với Chiến lược An ninh, trên
cơ sở quán triệt quan điểm quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của Đảng.
Chiến lược Quân sự Việt Nam cùng
với một số chiến lược chuyên ngành là bộ phận trọng yếu của Chiến lược Quốc
phòng; bao hàm tổng thể phương châm, chính sách, sách lược, giải pháp,… được hoạch
định, nhằm ngăn ngừa và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, xung đột vũ
trang do các thế lực thù địch liều lĩnh tiến hành đối với nước ta. Trọng tâm của
Chiến lược Quân sự Việt Nam là nghiên cứu quy luật chiến tranh, các hình thức
chiến tranh, các loại hình xung đột vũ trang, phương thức tiến hành chiến tranh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật quân sự, xác định các biện pháp chuyển đất
nước, lực lượng vũ trang từ thời bình sang thời chiến, chuẩn bị chiến trường,
xây dựng quyết tâm và kế hoạch tác chiến chiến lược, các loại hình tác chiến
chiến lược, v.v. Chiến lược Quân sự chỉ đạo nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật;
đồng thời, dựa vào kết quả và nguyên lý của nghệ thuật tác chiến chiến dịch,
chiến thuật để xem xét, điều chỉnh các vấn đề chiến lược và giải quyết các nhiệm
vụ chiến lược.
Ba là, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân vào xây dựng Chiến lược
Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam, trên cơ sở đường lối chính trị, đường
lối quân sự, quốc phòng của Đảng, phù hợp với đặc điểm tình hình quốc tế và
trong nước thời kỳ mới.
Trong suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng, về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân luôn thống nhất với quan điểm, đường lối của
Đảng. Những luận điểm mà Người đặt ra là cơ sở quan trọng để Đảng ta hoạch định
đường lối, chủ trương, sách lược cách mạng và những vấn đề cụ thể về tổ chức
xây dựng thực lực cách mạng, lực lượng vũ trang ba thứ quân, huy động toàn dân
tham gia kháng chiến...; đồng thời, làm sáng tỏ đường lối và chỉ đạo thực tiễn,
đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đến toàn thắng, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân vào xây dựng Chiến
lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới phải gắn liền với
quán triệt đường lối chính trị, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; đồng thời,
phải phù hợp với đặc điểm, tình hình quốc tế và trong nước; trong đó có cả thời
cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Đó là cách vận dụng tư tưởng của
Người về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân vào xây dựng
Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam bảo đảm khoa học, thiết thực
và hiệu quả nhất. Nếu xa rời phương pháp tiếp cận đó, việc xây dựng hai chiến
lược quan trọng này sẽ không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra và không có ý
nghĩa, tác dụng đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, ngăn ngừa và đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, xung đột; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược
dưới mọi hình thức, quy mô và bạo loạn, lật đổ của giặc ngoài, thù trong, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm chung của tình hình thế
giới ở mọi giai đoạn là luôn biến động, thay đổi nhanh chóng, khó lường, tác động
không nhỏ đến cách mạng nước ta, với cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Nhưng,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến đâu, cũng phải luôn thấu suốt quan
điểm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữ vững mục tiêu chiến
lược: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là điểm tương đồng quan trọng nhất,
cốt yếu nhất giữa tư tưởng của Người và quan điểm của Đảng, nó mang tính xuyên
suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam, cả trước đây, hiện nay và sau này. Vì
thế, trong quá trình xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt
Nam, phải quán triệt sâu sắc vấn đề này và lấy đó là cơ sở định hướng nội dung
của từng chiến lược.
Bốn là, vận dụng hiệu
quả tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân
dân vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản của Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược
Quân sự Việt Nam sát với khả năng, thực lực của đất nước.
Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược
Quân sự Việt Nam thời kỳ mới có nội hàm rộng, gồm nhiều vấn đề lớn, có giá trị
lý luận và thực tiễn sâu sắc, liên quan đến nhiều lĩnh vực, mà trực tiếp, quan
trọng nhất là lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Vì vậy, cùng với việc nắm vững tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, phải căn cứ vào tình hình,
khả năng, thực lực của đất nước để nghiên cứu xác định nội dung, những vấn đề
cơ bản của chiến lược cho phù hợp với thực tiễn. Tuyệt đối tránh việc xác định
nội dung chiến lược một cách chủ quan, duy ý chí, thiếu cơ sở khoa học, thực tiễn,
không đảm bảo chất lượng, thiếu tính khả thi. Thực tế, nước ta hiện nay đang tồn
tại mâu thuẫn giữa nhu cầu, yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ tăng cường quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc, với khả năng có hạn của nền kinh tế. Đây là “bài toán”
không dễ giải.
Nội dung của hai chiến lược có phạm
vi đề cập với yêu cầu khác nhau. Chiến lược Quốc phòng Việt Nam có nội dung rộng
hơn, chủ yếu là về quốc phòng, quan hệ trực tiếp tới vấn đề bảo vệ Tổ quốc gắn
chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; còn nội dung Chiến lược Quân sự Việt
Nam có phạm vi hẹp hơn, cụ thể hơn, trọng tâm là về quân sự và hướng vào bảo vệ
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Vì thế, cần xác định mục tiêu (gồm mục
tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể) của từng chiến lược cho phù hợp. Đối với Chiến
lược Quốc phòng Việt Nam, cần tập trung nghiên cứu, đánh giá đúng bối cảnh chiến
lược; dự báo đối tượng và tình huống quốc phòng; quan điểm, nguyên tắc, phương
châm chỉ đạo quốc phòng; phương thức xây dựng, hợp tác, đấu tranh quốc phòng;
nhiệm vụ, giải pháp và cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, v.v. Với Chiến lược
Quân sự Việt Nam, cần coi trọng nghiên cứu đánh giá đúng môi trường chiến lược;
dự báo đối tượng tác chiến, hình thái chiến tranh; chiến tranh nhân dân bảo vệ
Tổ quốc, tác chiến chiến lược và các loại hình tác chiến chiến lược; tổ chức
chiến trường, tổ chức chuẩn bị chiến tranh; tổ chức hiệp đồng tác chiến các cấp;
công tác đảng, công tác chính trị trong giai đoạn thời bình, chiến tranh, kết
thúc chiến tranh; công tác bảo đảm chiến tranh; tổ chức hệ thống lãnh đạo, chỉ
đạo, chỉ huy, điều hành tác chiến, v.v.
Trong bối cảnh phức tạp hiện nay,
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến
tranh nhân dân vào xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự phải hết
sức coi trọng đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá nước ta
bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Đây không những là nhiệm
vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân mà còn là mục tiêu của Chiến lược
Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới; đồng thời, thể hiện
sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về giữ cho “trong ấm, ngoài
êm” và chống “thù trong, giặc ngoài”.
Năm là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân vào việc nghiên
cứu, xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam phải đồng thời
làm phong phú và phát triển tư tưởng cách mạng của Người.
Đây là một trong những yêu cầu
quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, chiến tranh nhân dân vào việc nghiên cứu, xây dựng Chiến lược Quốc
phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam thời kỳ mới, nhằm giải quyết mối quan hệ giữa
kế thừa, bảo vệ với phát triển tư tưởng cách mạng của Người. Chúng ta đều biết,
tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, tính bền vững rất
cao, xuyên suốt thời gian. Những luận điểm về xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
chiến tranh nhân dân là những vấn đề cơ bản, được Người dày công nghiên cứu đúc
kết, khái quát, trên cơ sở học thuyết quân sự Mác – Lê-nin, truyền thống quân sự
đặc sắc của dân tộc, tinh hoa quân sự thế giới và sự kiểm nghiệm của thực tiễn
đấu tranh cách mạng Việt Nam hết sức phong phú. Vì thế, nó có ý nghĩa vô cùng lớn
và mang tính định hướng, chỉ đạo thực tiễn rất cao.
Học tập và làm theo tư tưởng Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm hành động của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta. Mặt khác, không phải ngẫu nhiên mà các thế lực thù địch, phản động,
cơ hội chính trị đã và đang ra sức tuyên truyền xuyên tạc, chống phá nền tảng
tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy,
sự chống phá đó của chúng dù tinh vi đến đâu, xảo quyệt đến mấy cũng chắc chắn
sẽ thất bại, bởi tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh từ lâu đã thấm sâu
vào tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam. Kẻ thù càng phủ nhận, càng chống phá
tư tưởng Hồ Chí Minh quyết liệt bao nhiêu lại càng khẳng định giá trị tư tưởng
và tầm vóc vĩ đại của Người bấy nhiêu.
Lý luận và thực tiễn có mối quan
hệ biện chứng. Lý luận chỉ đạo thực tiễn, thực tiễn kiểm nghiệm, soi rọi lý luận,
thông qua hoạt động thực tiễn làm cho lý luận phong phú, hoàn thiện hơn để trở
lại chỉ đạo thực tiễn hiệu quả hơn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân đã được thực tiễn đấu tranh cách mạng nước
ta kiểm nghiệm, khẳng định. Việc vận dụng tư tưởng đó của Người vào việc nghiên
cứu, xây dựng Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam thời kỳ mới là
rất cần thiết, quan trọng. Nhưng, chỉ dừng ở đó thôi chưa đủ, mà điều quan trọng
là cần phải gắn chặt giữa vận dụng với bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh, làm cho tư tưởng của Người phong phú, trường tồn cùng dân tộc. Đó là hành
động có ý nghĩa thiết thực nhất, thể hiện sự tôn vinh, lòng biết ơn sâu sắc của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu -
lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam./.
-MD27-
Nhận xét
Đăng nhận xét