Quyền
con người trên không gian mạng ở Việt Nam phù hợp với chuẩn mực quốc tế
Hiện nay, có một số người lợi dụng không gian mạng,
thường xuyên phát tán thông tin sai trái, nhằm chống phá Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Khi bị các cơ quan chức năng nhắc nhở, bắt giữ, xử lý
theo quy định của pháp luật, lập tức họ lu loa rằng, Luật An ninh mạng của Việt
Nam hà khắc, bóp chết tự do, dân chủ. Nhưng họ đã nhầm! Quyền con người trên
không gian mạng ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.
1. Không gian
mạng
Hiện nay, có nhiều quan niệm, cách tiếp cận khác
nhau về không gian mạng hay còn gọi là không gian ảo. Đây là môi trường nhân tạo,
con người không trực tiếp gặp nhau, nhưng lại có thể trao đổi thông tin, liên lạc
với nhau qua một hệ thống mạng, được kết nối toàn cầu - mạng toàn cầu, trên cơ
sở hạ tầng công nghệ thông tin phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, các vùng, khu
vực và toàn cầu. Khoản 3, Điều 1, Luật An ninh mạng năm 2018 của nước ta xác định:
“Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin,
bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều
khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội
không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”.
Nghiên cứu về không gian mạng và môi trường mạng ở
nước ta cho thấy, hai quan niệm này rất gần nhau. Khoản 3, Điều 4, Luật Công
nghệ thông tin năm 2006 quan niệm: “Môi trường mạng là môi trường trong đó
thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông
qua cơ sở hạ tầng thông tin”. Mà “Cơ sở hạ tầng thông tin là hệ thống trang thiết
bị phục vụ cho việc sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi
thông tin số, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính và cơ sở dữ
liệu” (Khoản 4, Điều 4, Luật Công nghệ thông tin).
Như vậy, không gian mạng hay môi trường mạng, cách
nói khác nhau, nhưng về bản chất không khác nhau vì đều là không gian ảo, nơi
con người có thể liên lạc, kết nối, trao đổi, giao tiếp với nhau. Sự phát triển
không gian mạng (môi trường mạng) phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng thông tin ở mỗi
quốc gia. Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung, không gian mạng rất
rộng lớn, hệ thống các mạng đang được sử dụng bao gồm: trình duyệt web (Google,
Chrome, Mozilla Firefox , Opera, Safari...); trang web tin tức (VnExpress, Tin
tức, Zing news, VTC News...); mạng xã hội (Facebook, Twitter, YuMe, Instagram,
Zing me, Youtube, Skype, WeChat, Google Plus, Go.vn...); tìm kiếm, tra cứu
(Google map, Bing, Google Docs...); tiện ích (chuyển tiền, việc làm, email, thiệp
điện tử...); trang mạng mua bán, kinh doanh, học tập, âm nhạc, giải trí1.
2. Quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm và việc hạn chế quyền của cá nhân, công dân trên không
gian mạng
Quyền của công dân trên không gian mạng. Môi
trường mạng là không gian rộng lớn, cá nhân, công dân và bất kỳ cơ quan, tổ chức
nào cũng đều có thể tự do bày tỏ quan điểm chính kiến, kết nối trao đổi với
nhau. Đó là quyền tự do của cá nhân: quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin (tự
do tìm kiếm, tiếp nhận và trao đổi thông tin) trên môi trường mạng. Đây là quyền
tự do cơ bản của công dân được pháp luật quốc tế, Hiến pháp, pháp luật Việt Nam
tôn trọng và bảo vệ.
Điều 11, Luật Báo chí năm 2016 quy định quyền tự do
ngôn luận trên báo chí (báo giấy, báo hình, báo nói, báo chí điện tử - không
gian mạng). Các quyền này của công dân bao gồm: (1). Phát biểu ý kiến về tình
hình đất nước và thế giới; (2). Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (3). Góp ý kiến, phê
bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng,
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân
khác.
Tương tự quyền tự do bày tỏ quan điểm, chính kiến của
công dân trên không gian mạng, công dân có quyền tiếp cận thông tin từ chính
môi trường mạng. Luật Tiếp cận thông tin quy định, quyền của công dân được cung
cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời; khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi
vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin. Luật An ninh mạng quy định một trong những
nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng là “bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo
điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng” (Khoản
3, Điều 4, Luật An ninh mạng).
Như vậy, với hành lang pháp lý hiện nay, cá nhân,
công dân có quyền tự do được sử dụng không gian mạng vì lợi ích cá nhân; có quyền
được bảo vệ các quyền và tự do của mình từ phía các cơ quan công quyền và chủ động
tự thực hiện (thực hành) quyền tự do cá nhân trên không gian mạng.
Nghĩa vụ, trách nhiệm công dân trên không gian mạng. Phù
hợp với chuẩn mực quốc tế, mỗi cá nhân, công dân trong khi sử dụng, thực hiện
các quyền và tự do của mình thì phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với cộng
đồng, xã hội, đối với quốc gia, dân tộc mà mình đang sống. Nghĩa là khi sử dụng,
thực hiện quyền và tự do cá nhân không được làm ảnh hưởng hay xâm phạm an ninh
quốc gia; trật tự công cộng, đạo đức xã hội; quyền và tự do của người khác. Vấn
đề này theo chuẩn mực quốc tế được gọi là hạn chế quyền con người để
bảo đảm vì lợi ích chung của xã hội, vì lợi ích cộng đồng trong một xã hội dân
chủ; vì các lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội,
vì quyền và tự do của người khác.
Cụ thể hóa nguyên tắc hạn chế thực hiện quyền và tự
do cá nhân, Luật An ninh mạng và các luật khác có liên quan đã quy định bằng
các hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, Luật An ninh mạng quy định 6 nhóm hành
vi bị nghiêm cấm (Điều 8) bao gồm:
Thứ nhất: - Sử dụng không gian mạng, công nghệ
thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, gồm: (1). Đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có
nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (quy định
tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 Luật An ninh mạng) và hành vi gián điệp mạng;
xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân,
bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng (quy định tại khoản
1, Điều 17 Luật An ninh mạng); (2). Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh
bạc qua mạng internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet; vi
phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; (3). Giả mạo trang thông
tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua
bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của
người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán;
(4). Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo
quy định của pháp luật; (5). Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật; (6). Hành vi khác sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin,
phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội;
- Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc,
lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam;
- Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về
giới, phân biệt chủng tộc;
- Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân
dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của
cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;
- Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người;
đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;
- Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.
Thứ hai: Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng,
gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều
khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông
tin quan trọng về an ninh quốc gia.
Thứ ba: Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ,
phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng
viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và
điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại
cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông
tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái
phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và
điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.
Thứ tư: Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực
lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng
biện pháp bảo vệ an ninh mạng.
Thứ năm: Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ
an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân hoặc để trục lợi.
Thứ sáu: Hành vi khác vi phạm quy định của Luật
này.
3. Luật pháp
quốc tế về nhân quyền
Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 và
hai Công ước quốc tế về quyền con người năm 1966 (Công ước về quyền dân sự và
chính trị - ICCPR; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa -
ICESCR), cùng các nghị định thư bổ sung tạo thành Bộ luật quốc tế về quyền con
người - là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người hiện nay.
Điều 2 của bản Tuyên ngôn năm 1948 quy định quyền con người: “không
phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm
chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội…”2. Đồng
thời, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân: “1. Mọi người đều có những
nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có
thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Trong khi hưởng thụ các quyền và tự do của
mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm sự
công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác,
cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và
phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”3.
Từ nguyên tắc quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm nêu
trong bản Tuyên ngôn, hai Công ước năm 1966 đã phát triển và cụ thể hóa bằng
các quy định cụ thể theo hướng xác định những quyền nào phải được thực hiện
ngay. Đó là các quyền đòi hỏi nhà nước phải bảo đảm thực hiện ngay lập tức. Vì
đấy là ranh giới, là “ngưỡng” của sự có hay không có quyền con người - quyền
tuyệt đối. Quyền cần được thực hiện dần dần, từng bước, là các quyền đòi hỏi
nhà nước từng bước có chính sách cụ thể để nâng cao đời sống, cải thiện chất lượng
cuộc sống của người dân - quyền tương đối và các quyền có thể bị
hạn chế - hạn chế quyền.
Nguyên tắc hạn chế quyền được quy định trong cả hai
Công ước năm 1966 như sau:
Điều 4, ICECSR quy định nguyên tắc các quốc gia
thành viên có thể đặt ra những giới hạn trong việc thực hiện quyền con người, với
các điều kiện: Những hạn chế đó phải được quy định trong luật; không được
trái với bản chất của các quyền có liên quan và vì lý do duy nhất nhằm thúc đẩy
lợi ích chung trong một xã hội dân chủ. ICCPR quy định cụ thể các quyền con người
có thể bị hạn chế và các lý do cho việc có thể áp đặt các hạn chế bao gồm: An
ninh quốc gia; Trật tự công cộng; Đạo đức và sức khỏe cộng đồng; Quyền và tự do
của người khác.
Trên cơ sở các nguyên tắc chung như trên, cả hai
Công ước quy định cụ thể một số quyền bị hạn chế; trong đó, có quyền tự do
ngôn luận (Khoản 2, 3, Điều 19 ICCPR) quy định: “2. Mọi người có quyền tự
do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi
thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng,
bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện
thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2
điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể
phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy
định trong pháp luật và là cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức
khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
4. Sự phù hợp giữa quyền con người trên không gian mạng
ở Việt Nam với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền
Viện dẫn nội dung cơ bản trên cho thấy, giữa luật
pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế về quyền con người cho thấy, cả hai đều có
những điều khoản quy định quyền con người gồm: quyền tuyệt đối, quyền tương đối
và quyền bị hạn chế. Những quyền bị hạn chế của Việt Nam được luật pháp quy định
đều vì: An ninh quốc gia; Trật tự công cộng; Đạo đức và sức khỏe cộng đồng;
Quyền và tự do của người khác nên phù hợp với luật pháp quốc tế về nhân
quyền.
Vậy nên, không có bất cứ lý do gì, những kẻ vi phạm
pháp luật Việt Nam trên không gian mạng lại lu loa, lớn tiếng rằng, Việt Nam vi
phạm tự do ngôn luận, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “bóp chết” những tiếng nói
“dân chủ” hay cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Thực chất, đây là những người vi
phạm pháp luật Việt Nam nên họ phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật.
Trong một xã hội dân chủ thì pháp luật phải được thượng tôn, điều đó đúng với mọi
quốc gia dân chủ, không riêng gì Việt Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét