NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ THỰC HIỆN LUẬT NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
Cho đến nay, cả nước đã hoàn thành nhiệm
vụ tuyển chọn, gọi thanh niên nhập ngũ năm 2019. Số lượng thanh niên nhập ngũ
trong cả nước lên đến hàng vạn người. Cũng như nhiều năm trước, trong đợt tuyển
quân năm nay đã có nhiều thanh niên tốt nghiệp đại học, có việc làm, thu nhập
ổn định nhưng vẫn làm đơn tình nguyện nhập ngũ.
Cá biệt có gia đình hai anh em cùng làm đơn xin được nhập
ngũ trong một đợt. Trả lời phỏng vấn báo chí trong dịp lên đường nhập ngũ, nhiều
thanh niên đã bày tỏ những suy nghĩ chân thành của mình: “Ngay từ khi còn nhỏ,
em đã mong được mặc bộ quân phục màu xanh, làm anh Bộ đội Cụ Hồ”. Có người thì
nói: “Em luôn mong muốn có dịp được sống trong quân ngũ để rèn luyện những phẩm
chất cao quý của thanh niên… tiếp tục phát huy truyền thống của dân tộc ta”. Có
người chia sẻ: “Bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của dân tộc là
trách nhiệm, vinh dự của thế hệ trẻ… Chúng em hiểu trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc
của thế hệ trẻ, nhất là trong tình hình hiện nay”.
Thế nhưng trên internet, mạng xã hội đã có kẻ
lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tán phát thông tin xấu độc. Chẳng hạn, có kẻ
viết: “Chính sách nghĩa vụ quân sự thực chất là chạy đua vũ trang”; “ Thời bình
sao phải tuyển nhiều lính như thời chiến?”; “Sao không tập trung vào phát triển
kinh tế, chống tham nhũng?”... Những “phản biện” nói trên công bằng mà nói, có
thể do thiếu hiểu biết về đường lối, chính sách quốc phòng, về Luật Nghĩa vụ
quân sự của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng đã có kẻ xấu lợi dụng dịp này để xuyên
tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực quốc phòng, an
ninh. Mục đích của họ là phá hoại mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước,
đặc biệt là với quân đội.
Đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta
có cơ sở lịch sử, chính trị, pháp lý minh bạch. Trước hết, đó là vì dân tộc ta
phải thường xuyên chống lại các thế lực xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta cho
thấy, không có một thế kỷ nào nhân dân ta không phải chống lại các cuộc chiến
tranh xâm lược.
Ngay từ thời kỳ phong kiến, các triều đại trong lịch sử
Việt Nam đã có chính sách “ngụ binh ư nông”(2). Chính sách này ra đời trong bối
cảnh-một đất nước đất không rộng, người không đông, lại thường xuyên bị các thế
lực nước ngoài xâm lược. Chính sách “ngụ binh ư nông” là sự kết hợp nhiệm vụ
duy trì lực lượng quốc phòng với sản xuất, sẵn sàng chuyển hóa lực lượng quân
sự từ sản xuất sang chiến đấu khi cần thiết và ngược lại, chuyển lực lượng
chiến đấu về sản xuất trong thời bình.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực ngày nay đã có nhiều
thay đổi, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều nguy cơ đe dọa về độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ... Ngày nay, những nguy cơ,
thách thức cũ vẫn còn đó thì lại có thêm những nguy cơ, thách thức mới. Đó là
bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước
và hạnh phúc của nhân dân. Gắn liền với nguy cơ, thách thức đó là phương thức
chống phá của các thế lực thù địch-đó là chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ. Về kỹ thuật, đó là việc các thế lực thù địch sử dụng internet,
mạng xã hội làm phương thức chống phá mới.
Ứng phó với tình hình đó, đường lối, chính sách quốc phòng
của Đảng và Nhà nước ta đã có những điểm mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng ta
xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền”… Chính sách và
chiến lược quốc phòng của Đảng ta là “tăng cường tiềm lực quốc phòng và an
ninh”; “xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững
chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời
của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền
vững đất nước”.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã công khai hóa chính sách quốc
phòng của Nhà nước ta. Đó là: “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang
tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh
chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam chủ trương từng
bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm
duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ.
Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh
quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình
để chống lại nước khác”.
Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua là sự thể chế hóa Hiến pháp
2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” (Điều 15);
“Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu,
lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng” (Điều 16).
Luật Nghĩa vụ quân sự quy định nghĩa vụ quân sự
là “Nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân;… Công dân
trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải
thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của luật này” (Điều 4).
Luật Nghĩa vụ quân sự nhằm thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc-chế độ trong tình hình mới. Về mặt lý luận cũng như thực tế,
thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự không làm tăng quân số tuyệt đối,
không nhằm chạy đua vũ trang… mà chỉ nhằm luân chuyển nhân lực từ dân sự sang
quân sự và ngược lại (đó là những đợt ra quân theo định kỳ hằng năm).
Ý kiến “phản biện” rằng: “Thời bình sao phải tuyển nhiều
lính như thời chiến?”; “Sao không tập trung vào phát triển kinh tế, chống tham
nhũng?”, nếu không nói là một luận điệu chính trị xấu độc thì cũng thể hiện sự
hiểu biết ấu trĩ về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nói chung, của Quân đội ta
nói riêng trong thời bình.
Thực
tế cho thấy, ngay trong thời chiến, Quân đội ta vẫn dành một lực lượng nhất
định tham gia sản xuất (phục vụ quốc phòng và dân sinh)… Hiện nay, không ít đơn
vị quân đội đang làm đồng thời cả hai nhiệm vụ-kinh tế và quốc phòng, như một
số đơn vị quân đội làm kinh tế, tự đáp ứng một phần nhu cầu, giảm thiểu gánh
nặng ngân sách cho Nhà nước. Hoặc các bệnh viện quân đội vừa là một cơ sở y tế
trong hệ thống y tế quốc gia, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng phục vụ cứu chữa trong
thời chiến. Trong thời bình, ở những bệnh viện này, không chỉ cán bộ, chiến sĩ
quân đội được chữa trị mà còn có cả những bệnh nhân dân sự… nhất là những bệnh
nhân mắc bệnh hiểm nghèo. Trên
lĩnh vực phòng, chống thiên tai, quân đội luôn là lực lượng nòng cốt và có
không ít cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cứu hộ-cứu nạn,
giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai trên khắp mọi miền Tổ quốc.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, các thế lực thù địch
thường lợi dụng những vấn đề kinh tế-xã hội khó khăn, như ô nhiễm môi trường,
những sơ hở trong quản lý kinh tế-dịch vụ công… để kích động người dân chống
lại chính quyền. Hành vi “bất tuân dân sự” là kịch bản trong đó, những phần tử
cầm đầu tập hợp lực lượng, tụ tập đông người, biểu tình gây rối… từng bước đi
đến bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội, chuyển hóa xã hội hiện hữu sang con đường
tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc vào ngoại bang. Vì vậy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực
chính trị tư tưởng ngày càng quyết liệt. Trên mặt trận ấy, các cán bộ, chiến sĩ
trong Quân đội nhân dân Việt Nam lại là một trong những lực lượng tiên phong...
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam ngày nay là: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện và tiền đề để thực hiện mục tiêu
đó là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và ổn
định xã hội. Thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự là góp phần đưa dân tộc
ta đi đến mục tiêu đó.
Nhận xét
Đăng nhận xét